TIN VUIFlowchart: Document: Số 
157
5/10/2008

  

 

 

 

 

 

 

 

 


 

  


 

Flowchart: Document: Số 
158
12/10/2008
TIN VUI                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

 

 

 

 

 

 

 

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

 SỐNG LỜI CHÚA..

PHÚC ÂM: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}.

ĐIỀU TỐT NHẤT.

TU ĐỨC..

SỐNG ĐẠO TRONG THỬ THÁCH..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 12.

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tưởng niệm 50 năm ĐGH Piô 12 qua đời

Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2008 của ĐTC Bênêđictô XVI.

“Các Đầy Tớ và Tông Đồ của Đức Chúa Giêsu Kitô”.

Khai mạc Thượng hội đồng Giám mục bàn về Lời Chúa.

Thư của Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ hiệp thông và ủng hộ lập trường của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam  

Đêm hội giao lưu văn nghệ mừng Đức tân Giám mục Bắc Ninh.

Tường thuật Thánh lễ Tấn phong Giám mục tại Toà Giám mục Bắc Ninh.

Hiệp sĩ Đại Thánh Giá đến Vatican.

Giáo phận Xuân Lộc: Thánh lễ Tạ ơn hoàn tất công trình Toà Giám mục và Đại Chủng viện.

“Khi bày tỏ tình yêu qua việc đối thoại, mình có thể cảm nhận được sự hiệp thông”.

Phỏng vấn ĐGM Antôn Vũ Huy Chương  sau 5 năm trong vai trò chủ chăn coi sóc Giáo phận Hưng Hóa 

Thánh Lễ Tạ Ơn, Làm Phép và Khánh Thành Nhà Tình Thương Trọng Đức.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỀ KINH THÁNH SẼ MANG TÍNH ĐẠI KẾT VÀ QUỐC TẾ..

Từ Vatican II, nghĩ về quà tặng và Gánh nặng.

Kính Mừng Maria.

DẪU CHA MẸ CÓ BỎ CON..

Con không có lời ru đưa con vào cuộc đời

ánh trăng rằm đêm nay.

Ghi lại tại Saigon, 8/10/2008.

Ngôi nhà gia đình.

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008.

Bài 8:

CHÚA THÁNH THẦN VÀ HOA TRÁI THẦN KHÍ (Gl 5)

SỐNG CHỨNG NHÂN..

Song thân Thánh Têrêsa dịp phong Chân Phước.

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Hội chứng nuông chiều con cái

Ngứa ngoài da - vì sao?.

ĐỌC SÁCH..

MẦU NHIỆM MÂN CÔI.

Năm Sự Mừng.

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

 

Chúa Nhật XXVIII Thường Niên A

PHÚC ÂM: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

{Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".}

Đó là lời Chúa.

 

ĐIỀU TỐT NHẤT

 

Một tiệc cưới hoàng gia là một sự kiện tuyệt vời, và được mời đến dự là một đặc ân kỳ diệu. Câu hỏi được đặt ra là tại sao người ta phải từ chối một điều tuyệt vời như vậy ? Câu chuyện sau đây có thể giúp trả lời câu hỏi này.

 

Khi Tom đang làm việc trên cánh đồng, bỗng sứ giả nhà vua đột ngột xuất hiện, báo cho anh một tin rất là tuyệt diệu.

 

“Anh được mời đến dự bữa tiệc hoàng gia”, sứ giả nói.

 

Nghe tin này, Tom như từ cung trăng rơi xuống. Trong phút chốc, cuộc đời buồn tẻ của anh đã thay đổi. “Chính xác bữa tiệc bắt đầu lúc nào ?” , anh hỏi.

 

“Tối nay, sứ giả đáp và thêm “ Khoảng một giờ nữa, tôi sẽ trở lại để nhận câu trả lời của anh. Tôi phải có câu trả lời rõ ràng là đi hay không “ Rồi anh ta đi.

 

Bữa tiệc được tổ chức ngay tối nay ! Điều này thay đổi mọi chuyện. Anh coi lại công việc anh đã làm. Thật tốt. Rồi anh nhìn đến những gì còn phải làm. May mắn, anh có thể hoàn thành hôm nay. Thật dễ chịu khi hoàn tất mọi việc. Thời tiết lý tưởng, nhưng liệu có kéo dài đến tối hay không ? Rồi anh xem lại mấy con bò, chúng còn mới trong công việc, anh phải giúp chúng thích ứng, không thể bỏ dở dang công việc này được.

 

Lúc đó anh nhìn lên và anh thấy gì ? Anh thấy sứ giả hoàng gia đang đi vào cánh đồng của người hàng xóm của anh. Vậy người này cũng được mời à ? Giả sử, có thể như vậy, anh bị đặt ngồi cạnh anh ta tại bàn tiệc ? Thật là một điều không thể chấp nhận được. Tất cả những hấp dẫn của bữa tiệc bỗng nhiên bắt đầu mất dần.

 

Rồi điều buồn tẻ nữa là giặt giũ và thay quần áo. Anh sẽ mặc bộ nào ? Ngay cả bộ đồ tốt nhất của anh hình như cũng chưa xứng với bữa tiệc hoàng gia, và anh không thích cảm giác bị khinh dể trước mặt nhà vua và các vị khách mời khác.

 

Do đó, dần dần, từng mối nghi ngờ bắt đầu nổi lên, chỉ trước đây ít phút, bầu trời trong xanh rực sáng giờ đã trở thành u ám tối tăm. Anh bắt đầu có những ý nghĩ khác. Tốt hơn, hôm nay nên làm xong công việc cầy bừa, và việc huấn luyện mấy con bò cũng cần phải hoàn tất.

 

“A” anh thở dài , “Nếu bữa tiệc được tổ chức vào tối mai, khi ta đã cày bừa xong, và ta sẽ không phải suy nghĩ lại về lời mời”.

 

Khi sứ giả trở lại thì anh cũng đã quyết định xong :

 

“ Sao”, sứ giả hỏi “anh đi chứ”.

 

“ Tôi phải làm xong phần đất này”, Tom bắt đầu phân trần, tôi phải hoàn tất việc huấn luyện con bò. Ngoài ra, tôi, nhưng sứ giả đã vội ngắt lời anh :

 

‘Chỉ cần nói cho tôi biết anh đi hay không đi.”

 

Tôi e rằng tôi sẽ không đi”, Tom nói. Anh định nói lời xin lỗi, nhưng sứ giả đã đi mà không buồn nghe.

 

Chúng ta thấy lý do khiến Tom không nhận lời mời không phải là xấu, mà là những điều tốt. Trong dụ ngôn của Chúa Giêsu cũng vậy, lý do khiến khách được mời từ chối, hầu hết, không phải là xấu, nhưng là những điều hoàn toàn hợp lý : những lo lắng về công việc thường ngày. Chúng ta e ngại điều tốt hơn điều xấu. Trong khi điều tốt lôi cuốn chúng ta, có lẽ điều xấu lại đẩy lùi chúng ta.

 

Không phải khi trên con dường trải đầy khó khăn, thì chúng ta không thể đạt được mục đích. Nói đúng hơn, khi mọi sự đều dễ dàng và đầy thuận lợi, chúng ta thường hay có khuynh hướng lần lữa, dễ bị lạc hướng, và vì thế có thể quên mất mục đích của mình.

 

Chúa Giêsu nói : “Khốn cho ngươi là kẻ đang no đủ, vì ngươi sẽ bị đói khát. Nhưng phúc cho những kẻ đói khát, vì ngươi sẽ được no đủ” Nhận thức về sự thiếu thốn là một ân sủng, đói khát thiêng liêng là phương thức Chúa mời gọi chúng ta đến bàn tiệc của Người.

 

Bữa tiệc là gì ? Bữa tiệc nói lên sự dồi dào trong cuộc sống mà Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta. Đó là lời mời gọi đi vào tương quan thân mật với Thiên Chúa, và đi vào một lối sống cá nhân sâu xa và xác thực hơn. Nhưng đó cũng là lời mời gọi đi vào cộng đồng với tha nhân. Lời mời gọi cũng yêu cầu chúng ta từ bỏ sự cô lập, sự độc đoán, sự ích kỷ, để chúng ta hòa đồng, liên kết, và cộng tác với tha nhân. Và, tất nhiên, trong sự phân tích cuối cùng, đó là lời mời gọi đi vào cuộc sống vĩnh hằng mai sau.

 

Ngay như cha mẹ còn mong muốn sự tốt đẹp nhất cho con cái mình, thì Thiên Chúa càng mong muốn sự tốt nhất cho chúng ta là con cái Người. Và chỉ có mới biết điều thực sự tốt đẹp nhất cho chùng ta.

 

Theo tập sách Bài Giảng Chúa Nhật

Giáo phận Sàigòn

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

SỐNG ĐẠO TRONG THỬ THÁCH


Thử thách có nhiều loại.


Chức cao quyền trọng với nhiều lợi lộc là một thử thách ngọt ngào. Những người "được" dẫn vào thử thách đó thường dễ vui vẻ xin vâng.


Giàu có với nhiều tài sản là một thử thách ngon lành. Những người "được" đi vào thử thách đó thường dễ hân hoan cảm tạ Chúa.


Mất quyền chức, mất của cải là một thử thách đắng cay. Nhiều người "bị" lôi vào thử thách đó đã cảm thấy bực bội, bất bình.


Hôm nay, tôi suy nghĩ đôi chút về loại thử thách là những đớn đau. Suy nghĩ của tôi dựa trên chuyện thánh Gióp trong Cựu Ước.


1/ Một người đạo đức giàu sang phú quý


Kinh Thánh viết: "Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.

 

Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái.

 

Ông có một đàn súc vậy gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái. Tôi tớ thì rất đông.


Ông là người giàu có nhất trong số các con cái phương Đông.


Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người mời ba cô em gái đến để ăn uống với họ.


Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp gọi họ đến để thanh tẩy họ. Rồi ông dậy thực sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: Biết đâu các con trai ta đã phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! Lần nào ông Gióp cũng làm như thế"
(G 1,1-5).


2/ Một người bị thử thách: Mất mát và đau khổ


Thiên Chúa rất hài lòng với ông Gióp. Thấy vậy, Satan xin Chúa để nó được phép thử thách ông, xem trong thử thách ông còn trung thành với Chúa không. Chúa cho phép. Satan được làm hại mọi sự ông có, nhưng không được đụng tới ông. Satan liền ra tay.


Kinh Thánh chép:


"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.


Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trới giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.


Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: Người Canđê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.


Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay"
(G 1,13-19).


Tất cả các thử thách trên đây thực là khủng khiếp. Nhưng phản ứng của ông Gióp là vâng phục, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:


"Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.

 

"Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (G 1,21).


Khi thấy ông Gióp không hề phạm tội, cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa. Satan lại xin Chúa cho phép nó thêm thử thách nặng hơn. Lần này nó tấn công chính bản thân ông Gióp. Chúa cho phép.


"Vậy Satan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi" (G 2, 7).


3/ Một người rất mực trung thành với Chúa


Trước cảnh tàn tạ đó, người đầu tiên xỉa xói ông Gióp là vợ của ông. Nhưng ông trả lời: "Chúng ta đón nhận điều lành bởi Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" (G 2,10).


Tiếp đến là các bạn thân. Họ đến bên ông, kẻ nói thế nọ, người nói thế kia.


Sau cùng, vì quá đau đớn, ông Gióp đã than thân trách phận một cách rất tự nhiên, theo bản năng một người quá khổ.


"Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời!" (G 3,2).


"Sao tôi không chết đi khi vừa mới chào đời. Sao tôi không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ" (G 3,11).


Rồi ông than van với Chúa, cầu nguyện và sám hối. Than van, mà không hề xúc phạm. Phó thác, mà vẫn năn nhỉ với Chúa. Sám hối thảm thiết mà vẫn hy vọng tràn trề. Trong mọi lúc, ông luôn tỏ ra vâng phục ý Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn.


Sau nhiều ngày bị thử thách nặng nề, ông Gióp đã thưa với Chúa:


"Việc gì Ngài cũng làm được,

Không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu...

Phải, con đã nói mà chẳng hiểu biết gì, về những điều kỳ diệu vượt quá sức con.

Vậy, xin Ngài lắng nghe, và cho con thưa gởi đôi điều...

Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói. Nhưng bây giờ, chính mắt con chứng kiến.

Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại,

trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn" (42, 1-6).


Chúa đã thử thách ông Gióp. Ông đã trung thành.


Sau cùng Chúa đã thưởng ông. Chúa khôi phục lại tài sản cho ông. Chúa tăng gấp đôi những gì ông đã có trước kia.


Chuyện thánh Gióp là một gương sáng. Thời nào cũng có những người sống theo gương sáng đó.


Những ông Gióp thời nay vẫn xuất hiện quanh ta. Họ thuộc đủ mọi thành phần trong Giáo Hội và trong xã hội.


Có nhiều người đau khổ suốt đời, chứ không phaỉ chỉ một quãng đời.


Họ âm thầm, mà cao thượng. Họ lặng lẽ, mà vẫn làm chứng cho Chúa một cách thuyết phục.


Chúng ta đau khổ, mất mát. Nhưng chẳng thấm gì, so với những thử thách của họ.


Xin Chúa thương nâng đỡ họ và nâng đỡ chúng ta.

 

+ ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 12


VATICAN. Ngày 10-10-2008, các nghị phụ Thượng HĐGM thứ 12 về Lời Chúa đã nhóm phiên họp toàn thể thứ 8 và thứ 9, để tiếp tục nghe các nghị phụ phát biểu ý kiến.


ĐTC cũng hiện diện và đặc biệt ngài đã chuyển lại cho mỗi nghị phụ Bộ Kinh Thánh bằng nhiều thứ tiếng khác nhau do Liên hiệp Kinh Thánh tại Đức tặng cho ngài trong những ngày trước đây.


Trong phiên họp ban sáng, các bài phát biểu của các nghị phụ đề cập đến vấn đề đón nhận và hội nhập Kinh Thánh trong gia đình. Một số nghị phụ đề nghị làm sao để mỗi người trong gia đình có một cuốn Kinh Thánh riêng, cổ võ việc đọc Kinh Thánh trong gia đình. Một đề tài khác được nói tới là vấn đề rao giảng Tin Mừng tại Đông Âu, Myanmar, Thánh Địa là những vùng vốn phải chịu bách hại, thiên tai và xung đột chiến tranh.


Cho đến nay đã có hằng trăm nghị phụ lên tiếng phát biểu, mỗi vị được nói tối đa 5 phút và nhiều khía cạnh của chủ đề Lời Chúa đã được đề cập đến. Sau đây, chúng tôi xin gửi đến quí vị nội dung bài phát biểu của vài nghị phụ được giới báo chí đặc biệt chú ý:


CÁC HỌC VIỆN


ĐHY Zenon Grocholewski , người Ba Lan, Tổng trưởng bộ giáo dục Công Giáo, nói về những hình thức giảng dạy tại các học viện cao đẳng của Giáo Hội, trong đó Lời Chúa phải làm căn bản cho kiến thức về mọi chân lý đức tin và nguồn mạch sự sống.


1. Trước tiên ĐHY ghi nhận rằng ngày nay có nhiều học viện dành cho giáo dân và nữ tu được thành lập, nhưng đồng thời dường như sự dốt nát của giáo hữu về tôn giáo lại gia tăng. Cuộc nghiên cứu gần đây do Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo thế giới thực hiện tại 10 nước Âu Châu cho thấy có sự dốt nát kinh khủng của các tín hữu về những ý niệm sơ đẳng liên quan tới Kinh Thánh, chẳng hạn có nhiều người không biết trả lời những câu hỏi như: ”Các sách Tin Mừng có phải là thành phần của Kinh Thánh hay không?”, ”có phải Chúa Giêsu đã viết ra Kinh Thánh hay không?”, ”Giữa Moisê và Phaolô, ai là nhân vật của Cựu Ước?”, v.v. Sự dốt nát như thế là mảnh đất màu mỡ cho các giáo phái phát triển. Từ tình trạng đó, chúng ta phải cứu xét một vài sự kiện:


Chúng ta vất vả nhiều, nhưng có lẽ chúng ta không phân phối năng lực một cách hợp lý trong các thể thức và cấp độ giảng dạy. Sự gia tăng các học viện gây thiệt hại cho một nền giáo dục phổ thông hơn trong việc mục vụ thông thường. Số linh mục giảm sút, nhưng con số các linh mục cảm thấy mình được kêu gọi làm giáo sư lại gia tăng, và coi nhẹ việc mục vụ thông thường. Nhưng chính đây là điều mà Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM này nói tới. Lời Chúa được gửi tới tất cả, nhắm sinh hoa kết quả nơi mọi người. Chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về việc phân phối năng lực đúng đắn trong việc giảng dạy, những năng lực mà chúng ta sở hữu, để làm cho toàn thể Thân Mình huyền nhiệm của Chúa Kitô được tăng trưởng và hoạt động.


Trong viễn tượng đó, nên tạo điều kiện và phổ biến những khóa học thích hợp về các khoa học thánh mà không cần phải cấp các bằng cấp, như thế quần chúng có thể tham dự các khóa học đó dễ dàng hơn.
Tiếp đến, có nhiều học viện cao đẳng thường cung cấp những môn học biệt lập, và lại coi nhẹ những kiến thức căn bản về Kinh Thánh, tín lý, luân lý. Người ta thơ ngây tưởng rằng những kiến thức đó các sinh viên đã có rồi, nhưng thực tế không phải như vậy, và vì thế việc huấn luyện trí thức, về phương diện tôn giáo, không có tính cách hệ thống, thống nhất và không mang lại kết quả, do đó không chuẩn bị thực thi điều cần có về phương diện mục vụ Kinh Thánh. Cần phải đề cao tầm quan trọng của các chân lý cơ bản về đức tin, liên kết với Lời Chúa, vì các chân lý này xác định đời sống Kitô của chúng ta, quan hệ của chúng ta với Chúa, và niềm vui Kitô của chúng ta.


KINH THÁNH VÀ GIÁO HỘI


ĐHY William Levada , người Mỹ, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, trong bài phát biểu, đã đề cập đến một điều đã được ĐTC Biển Đức 16 nhiều lần nhắc tới, đó là quan hệ giữa Kinh Thánh và Giáo Hội. Ngài nói:


- Nhận xét đầu tiên của tôi là cần làm sáng tỏ quan hệ giữa Kinh Thánh và Giáo Hội. Chính trong niềm tin của Giáo Hội mà người ta hiểu đúng đắn về Sách Thánh và việc yêu mến đọc và sử dụng Sách Thách không thể không thăng tiến một cảm thức về niềm tin của Giáo Hội.


- Nhận xét thứ hai liên quan đến việc giải thích Kinh Thánh: đây không phải chỉ là một cố gắng của mỗi người về mặt khoa học, nhưng phải luôn luôn đối chiếu, tháp nhập và kiểm chứng bằng truyền thống sinh động của Giáo Hội. Tuy việc giải thách các văn bản Kinh Thánh phải luôn để ý tới kho tàng nghiên cứu khoa học của các nhà chú giải, nhưng việc giải thích ấy cũng cần một sự chú giải được phát triển trong liên hệ chặt chẽ giữa Lời Chúa và niềm tin của Giáo Hội, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính và được biểu lộ qua các thế kỷ trong giáo huấn đạo lý của Huấn Quyền Hội Thánh.


Nhận xét thứ ba về quan hệ chặt chẽ giữa Kinh Thánh và đại kết Kitô. ĐHY Levada nói: ”Người ta nhận thấy Kinh Thánh thực là một môi trường hiệp nhất, nhưng đồng thời chúng ta không thể làm ngơ sự kiện lịch sử, theo đó nơi căn cội những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô có sự giải thích đối nghịch nhau về những văn bản Kinh Thánh nòng cốt. Chỉ cần nghĩ đến cuộc khủng hoảng bè rối Ario thời thượng cổ và cuộc cải cách của Tin Lành thời Trung Cổ. Thượng HĐGM này phải để ý tới khía cạnh đại kết đó, vì sự chú ý tới Lời Chúa được viết ra, chắc chắn là một liên hệ chặt chẽ làm cho Giáo Hội Công Giáo xích lại gần các hệ phái Kitô khác trong sự tìm kiếm chung.


Sau cùng, ”nhận xét thứ tư của tôi muốn nói về quan hệ giữa Kinh Thánh và Phụng vụ. Nên nhớ rằng trong phụng vụ trình thuật Kinh Thánh trở thành biến cố cứu độ trong hiện tại.


GIẢI THÍCH KINH THÁNH


Cha Julián Carrón, người Tây Ban Nha, Chủ tịch Phong trào Hiệp thông và Giải Phóng và là một trong hai LM được ĐTC Bổ nhiệm làm thành viên của Thượng HĐGM hiện nay. Trong bài phát biểu, cha cũng đề cập đến vấn đề giải thích Kinh Thánh và nói rằng:


”Việc giải thích Kinh Thánh là một trong những mối quan tâm được cảm nghiệm thấy nhiều nhất trong Giáo Hội ngày nay. ĐHY Ratzinger đã nêu bật nòng cốt thách đố do việc giải thích Kinh Thánh ngày nay gây ra, khi ngài viết: ”Làm thế nào tôi có thể đạt tới một sự hiểu biết không dựa trên phán đoán của những điều tôi giả thiết, một sự hiểu biết giúp tôi thực sự lãnh hội được sứ điệp của văn bản Kinh Thánh, trả lại cho tôi cái gì đó không đến từ chính tôi?”


Về khó khăn này, gần đây Huấn quyền của Giáo Hội đã mang lại cho chúng ta một số yếu tố giúp ra khỏi mọi thái độ thu hẹp Lời Chúa.


KINH MÂN CÔI VÀ KINH THÁNH



 Đức Cha Tomash Peta, TGM giáo phận Đức Maria Chí Thánh ở thủ đô Astana, Chủ tịch HĐGM Kazakstan, đã đề cao vai trò của Mẹ Maria trong việc đón nhận Lời Chúa, như một mẫu gương đối với các tín hữu: Cuộc đời của Mẹ Maria là chìa khóa để hiểu Kinh Thánh. Dưới ánh sáng cuộc sống của Mẹ Maria, chúng ta có thể đọc trọn Kinh Thánh và hiểu rõ hơn các mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội, cũng như toàn thể chương trình cứu độ của Thiên Chúa.


Đức Cha ghi nhận Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM đã đề cao Kinh Mân Côi như một hình thức đơn sơ và phổ quát để lắng nghe Lời Chúa trong sự cầu nguyện. Đức TGM nói: ”Tôi xác tín rằng điều quan trọng đối với thời đại chúng ta đang sống là nhắc nhớ và cổ võ việc đọc kinh Mân Côi, vì đó là con đường đến với Mẹ Maria, Mẹ đã hiểu và kết hiệp với Lời Chúa hơn ai hết”.


Đức TGM Peta nhắc lại sự kiện tại Kazakstan, có rất nhiều tín hữu Công Giáo bị cộng sản Liên xô lưu đày tới đây, trong mấy chục năm trời, họ không có LM, thánh đường, Kinh Thánh, các bí tích, ngoại trừ phép rửa tội cho trẻ em mà họ tự làm cho con cái mình. Nhưng chính nhờ kinh Mân Côi mà các tín hữu lưu đày ấy bảo tồn được đức tin, hiểu các chân lý căn bản của Công Giáo, nhân phẩm của họ và hy vọng một thời kỳ tươi sáng hơn.


Và Đức cha Peta kết luận rằng: ”Đề tài thượng Hội đồng GM chúng ta, 'Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội' không thể được suy niệm sâu xa mà không có Mẹ Maria. Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, dạy chúng ta lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, sống phù hợp với Lời Chúa, và can đảm công bố Lời Chúa một cách trọn vẹn, không thỏa hiệp với thế gian”.


CẢI TIẾN BÀI GIẢNG


Vấn đề cải tiến bài giảng, cũng được nhiều nghị phụ đề cập đến. Đặc biệt Đức Cha Vincent Lý Bỉnh Hạo (Ri Pyung Ho), 67 tuổi, GM giáo phận Kim Châu (Jeonju), đã cổ võ việc học thuộc lòng các bản văn Kinh Thánh trong thánh lễ hằng ngày. Trong bài tham luận sáng ngày 9-10 vừa qua, ngài nói:


”Đề tài tôi chọn cho bài phát biểu này là việc giảng thuyết. Trước hết tôi muốn trưng dẫn lời cha Lucien Legrand thuộc hội thừa sai Paris, cha đã viết một bài trong tạp chí ”Dei Verbum” (n.70/71, pp.9-15) về ”Trào lưu thủ cựu và Kinh Thánh”. Cha viết: ”Như người ta thường nói, người Tin Lành đọc Kinh Thánh, còn các tín hữu Công Giáo thì nói về Kinh Thánh. Người Tin Lành học nhớ thuộc lòng phần lớn Kinh Thánh; còn chúng ta không thể trưng dẫn một câu Kinh Thánh chính xác .. (Dĩ nhiên có nhiều khía cạnh gây vấn đề trong việc giảng thuyết của Tin Lành). Nhưng ít nhất Lời Chúa là thành phần được trang bị trong tâm trí của họ để đương đầu với các vấn đề của cuộc sống.. Dầu sao đi nữa, phải chăng chúng ta không nên tháp nhập một số đoạn Kinh Thánh cần học thuộc lòng trong việc huấn giáo của chúng ta?. Cha Legrand viết tiếp: ”Người Tin Lành trưng dẫn Kinh Thánh, người Công Giáo thì rút ra những đề tài trừu tượng được coi là thuộc về Kinh Thánh. Một thí dụ điển hình về xu hướng này là thu hẹp sứ điệp Kinh Thánh vào những đoạn có thể thấy trong một vài loại bài giảng, quá thường xuyên. Trong việc dọn bài giảng của Công Giáo, vị giảng thuyết đọc đoạn Kinh Thánh ngày chúa nhật, rút gọn vào một đề tài nào đó và tiếp tục khai triển đề tài này mà không tham chiếu thêm văn bản Kinh Thánh... Chúa Giêsu là nhà kể chuyện rất tài, nhưng trong các bài giảng ngài bị biến thành người nói chuyện với một giọng nhạt nhẽo dạy luân lý một cách tầm thường hoặc lý luận không có sự sống.. Làm như thế tức là chúng ta biến sức mạnh của Lời Chúa thành một thứ số học trừu tượng.


Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm bản thân của tôi: từ khi tôi bắt đầu sứ vụ giám mục hồi năm 1990, tôi cố gắng học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh của thánh lễ hằng ngày. Và phần lớn trong các bài giảng của tôi, chỉ cần để cho Lời Chúa tự phát biểu. Vì thế, các giáo dân của tôi hiểu rất rõ và họ vui mừng được nghe trực tiếp Lời Chúa và chính Lời Chúa cứu vớt dân chúng. Như tôi được biết, đó là cách Chúa Giêsu giảng Lời Chúa. Và khi chúng ta học thuộc lòng, chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Mẹ Maria là mẫu gương trong việc nghe Lời Chúa. Văn bản Kinh Thánh, ”Mẹ Maria giữ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19), làm cho chúng ta ý thức rằng trước khi suy nghĩ đắn đo về Lời Chúa, Mẹ Maria đã học thuộc lòng, và suy tư đắn đo có nghĩa là Mẹ lập đi lập lại Lời Chúa trong tâm hồn trong một thời gian lâu dài cho đến khi Lời Chúa trở nên rõ ràng. Theo nghĩa đó, Mẹ biến tâm hồn Mẹ thành một thư viện Lời Chúa. Và như thế, giúp tháp nhập qua việc học thuộc lòng một số lượng Kinh Thánh vào trong chương trình đào tạo LM hiện tại và tương lai, đó chẳng phải là điều quan trọng sao? Tiếp đến, nên thiết lập cho các chủng sinh, LM một cuốn chỉ nam cụ thể về việc giảng thuyết Kinh Thánh. Nếu làm như thế, có nghĩa là các vị mục tử mặc lấy áo giáp của Chúa, đặc biệt là khí giới tấn công duy nhất trong số 6 khí giới mà thánh Phaolô đã nói đến trong thư gửi các tín hữu Ephêsô (6,10-18), là gươm của Thánh Linh, tức là Lời Chúa. Như vậy, chắc chắn Giáo Hội sẽ có một mùa xuân mới.


Thứ bẩy 11-10-2008, Thượng HĐGM Thế giới kỳ thứ 12 về Lời Chúa tiến hành được 1 phần 3 chương trình và tiếp tục ở trong giai đoạn lắng nghe ý kiến của các nghị phụ và các tham dự viên khác. Giai đoạn này còn kéo dài cho đến hết ngày thứ tư, 15-10 tới đây, rồi Công nghị GM thế giới sẽ bước sang giai đoạn thứ 2 với các cuộc thảo luận đào sâu vấn đề trong 12 nhóm nhỏ theo ngôn ngữ: tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, mỗi thứ tiếng có 3 nhóm, tiếp đến là 2 nhóm tiếng Ý và 1 nhóm tiếng Đức. Khác với các Thượng HĐGM trước đây, lần này không có nhóm nghị phụ nào nói tiếng la tinh.


 

Mục lục

 

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tưởng niệm 50 năm ĐGH Piô 12 qua đời

 

VATICAN. Sáng thứ năm 9-10-2008, các nghị phụ Thượng HĐGM chỉ nhóm khoáng đại từ 9 đến 11 giờ, sau đó, lúc 11 giờ rưỡi, các vị đã vào Đền thờ Thánh Phêrô để dự thánh lễ do ĐTC Biển Đức 16 cử hành nhân lễ giỗ thứ 50 của Đức Cố Giáo Hoàng Piô 12.

THÂN THẾ

ĐGH Piô 12 tục danh là Eugenio Pacelli, sinh tại Roma ngày 2-3-1876 và qua đời tại dinh thự Castel Gandolfo ngày 9 tháng 10 năm 1958.

Ngài xuất thân từ một gia đình quí tộc. Ông nội ngài được Đức chân phước Giáo Hoàng Piô 9 phong tước hoàng thân và hầu tước. Thân phụ ngài đã làm luật sư tòa thượng thẩm Rota ở Roma. Ngài thụ phong LM năm 1899, lúc mới 23 tuổi, hai năm sau, đậu tiến sĩ giáo luật và dân luật và bắt đầu phục vụ tại Tòa Thánh. Năm 1917, cha Pacelli được Đức Giáo Hoàng Benedetto 15 thăng TGM và bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại miền Bavière, và năm sau kiêm nhiệm Sứ Thần Tòa Thánh tại nước Phổ.

Năm 1929, Đức TGM Pacelli được Đức Piô 11 thăng làm HY và năm sau đó, bổ nhiệm làm Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Ngày 10-2 năm 1939, sau khi Đức Piô 11 qua đời, ĐHY Pacelli được bầu làm Giáo Hoàng, điều khiển con tàu Giáo Hội trong thời kỳ sóng gió của thế chiến thứ 2.

Vốn là người có lòng sùng kính nồng nhiệt đối với Đức Mẹ, trong Năm Thánh 1950, ngài đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Maria Hồn Xác lên trời. Đức Piô 12 đã công bố 41 thông điệp, và để lại cho Giáo Hội một kho tàng khôn ngoan khôn sánh.

Trong thời kỳ chiến tranh, hàng ngàn người chạy vào Vatican tị nạn, chính ĐTC cũng không muốn cho sưởi căn hộ của ngài, để biểu lộ sự cảm thông gần gũi với những đau khổ của dân tị nạn.

Đồng tế với ĐTC có lối 60 Hồng Y, trước sự hiện diện của lối 200 GM và LM nghị phụ Thượng HĐGM, các dự thính viên và chuyên gia, và khoảng gần 8 ngàn tín hữu. Đại diện chính phủ Italia có ông Gianni Letta, thứ trưởng tại Phủ Chụ tịch Hội đồng bộ trưởng.

BÀI GIẢNG CỦA ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào các bài đọc sách thánh nói về những đau khổ thử thách mà các tôi tớ Chúa phải sẵn sàng đương đầu, ĐTC nhắc lại sự nghiệp của Đức Piô 12 trong việc phục vụ Giáo Hội, đặc biệt khi làm Sứ thần Tòa Thánh tại Munich rồi tại Berlin. Đức Cố Giáo Hoàng đã để cho Lời Chúa hướng dẫn như ánh sáng chỉ đường, con đường qua đó, Người an ủi những người phải di tản và những người bị bách hại, lau nước mắt vì những đau khổ và khóc thương vô số các nạn nhân chiến tranh. ĐTC nói:

”Chỉ có Chúa Kitô là niềm hy vọng đích thực của con người; chỉ khi nào tín thác vào Chúa, tâm hồn con ngừơi mới có thể cởi mở đón nhận tình thương chiến thắng oán thù. Ý thức đó tháp tùng Đức Piô 12 trong sứ vụ làm người kế vị Thánh Phêrô, sứ vụ mà ngài khai mạc đúng vào lúc những đám mây đầy đe dọa của một cuộc thế chiến mới đang đè nặng trên Âu Châu và toàn thế giới, cuộc chiến tranh mà Đức Cố Giáo Hoàng hết sức tìm cách tránh và ngăn cản. Trong sứ điệp truyền thanh ngày 24-8-1939, Đức Piô 12 nói: ”Nguy hiểm đang gần kề, nhưng vẫn còn thời gian. Không gì bị mất với hòa bình. Tất cả có thể bị mất đi với chiến tranh” (AAS, XXXI, 1939, p.334). ĐTC nói thêm rằng:

”Chiến tranh đã làm nổi bật tình thương của Đức Cố Giáo Hoàng đối với thành Roma yêu quí, tình yêu được ngài chứng tỏ qua các hoạt động bác ái khẩn trương mà ngài cổ võ để bênh vực những người bị bách hại, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, chính kiến. Khi thành Roma bị chiếm đóng, Đức Piô 12 nhiều lần được khuyên nên rời bỏ Vatican để đi nơi khác lánh nạn, nhưng bao giờ ngài cũng quyết liệt trả lời: ”Tôi sẽ không rời Roma và chỗ của tôi, dù tôi có phải chết” (Summarium, p.186). Ngoài ra, các thân nhân họ hàng và những chứng nhân khác kể lại sự tự từ bỏ của ngài về lương thực, sưởi, quần áo, tiện nghi để chia sẻ thân phận bị thử thách đau thương của dân chúng do các cuộc dội bom và những hậu quả của chiến tranh (A. Tornielli, Pio XII, Un uomo sul trono di Pietro). Và làm sao có thể quên sứ điệp truyền thanh nhân dịp lễ giáng sinh hồi tháng 12 năm 1942? Với giọng nghẹn ngào cảm động, ngài lên án tình trạng ”hàng trăm ngàn người, không phải vì lỗi của họ, nhưng chỉ vì quốc tịch và dòng dõi của họ, mà phải đi lưu đày hoặc phải chết dần chết mòn” (AAS, XXXV, 1943, p.23), những lời này ám chỉ rõ ràng về các cuộc phát lưu và tiêu diệt người Do thái. Đức Piô 12 thường hành động một cách kín đáo và âm thầm chính là vì, dưới ánh sáng của tình trạng cụ thể trong thời điểm phức tạp bấy giờ, Ngài trực giác thấy rằng chỉ với cách thức đó mới có thể tránh tình trạng tệ hại hơn nữa và cứu được số đông người Do thái bao nhiêu có thể. Do những can thiệp của ngài, rất nhiều chứng tá đồng thanh biết ơn đã được các giới chức chính quyền cấp cao nhất của Do thái gửi đến Đức Piô 12 sau thế chiến thứ hai, cũng như khi ngài qua đời, như từ Bộ trưởng ngoại giao Israel, bà Golda Meir. Bà đã viết: ”Khi cuộc tử đạo kinh khủng nhất đổ xuống trên dân tộc chúng tôi, trong 10 năm kinh hoàng thời Đức quốc xã, tiếng nói của Đức Giáo Hoàng đã gióng lên để bênh vực các nạn nhân”, và bà kết luận rằng: “Chúng tôi thương tiếc một vị đại tôi tớ của hòa bình”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nêu nhận xét rằng: ”Rất tiếc là cuộc tranh luận lịch sử về hình ảnh Vị Tôi Tớ Chúa Piô 12 không luôn luôn trong sáng, đã bỏ qua không làm nổi bật tất cả các khía cạnh trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài. Rất nhiều bài diễn văn, huấn từ, các sứ điệp ngài nói với các nhà khoa học, các bác sĩ, các nhân vật lãnh đạo của giới lao động các loại, một số bài ngày nay còn giữ nguyên tính chất thời sự đặc biệt và tiếp tục là điểm tham chiếu chắc chắn..

ĐTC Biển Đức 16 nhắc đến những thông điệp quan trọng nhất trong số 41 thông điệp của Đức Piô 12. Như thông điệp Divino afflante Spiritu, Chúa Thánh Linh thổi, công bố ngày 20-9-1943 thiết lập các qui luật đạo lý để nghiên cứu Kinh Thánh, làm nổi bật tầm quan trọng và vai trò của kinh Thánh trong đời sống Kitô. Đây là một văn kiện chứng tỏ một sự cởi mở rất lớn đối với việc nghiên cứu khoa học về các văn bản Kinh Thánh. Làm sao chúng ta có thể không nhắc đến thông điệp này trong lúc Thượng HĐGM đang diễn ra về đề tài ”Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội?”. Chính nhờ trực giác ngôn sứ của Đức Piô 12, ngừơi ta bắt đầu nghiêm túc nghiên cứu về các đặc tính của khoa sử học xưa kia, để hiểu rõ hơn bản chất của các sách thánh, nhưng không làm suy yếu hoặc phủ nhận giá trị lịch sử của Kinh Thánh..

”Một thông điệp khác của Đức Piô 12 được ĐTC nhắc tới là thông điệp Mediator Dei, Đấng trung gian của Thiên Chúa, công bố ngày 20-11- 1947. Qua văn kiện này, Vị Tôi Tớ Chúa Piô 12 đẩy mạnh phong trào phụng vụ, nhấn mạnh về yếu tố nòng cốt của việc phụng tự. Ngài viết ”Yếu tố này phải luôn có tính chất nội tâm: luôn luôn phải sống trong Chúa Kitô, tận hiến tất cả cho Chúa, để trong Chúa, với Chúa và vì Chúa mà tôn vinh Chúa Cha. Phụng vụ thánh đói hai yếu tố này phải được liên kết chặt chẽ với nhau.. nếu không tôn giáo trở thành vụ hình thức, không có nền tảng cũng chẳng có nội dung”.

Sau cùng, chúng ta không thể không nhắc đến sự đẩy mạnh của Đức Piô 12 dành cho các hoạt động truyền giáo, qua các thông điệp Evangelii praecones, những người công bố Tin Mừng năm 1951 và thông điệp Fidei Donum Hồng ân đức tin, năm 1957, làm nổi bật nghĩa vụ của mỗi cộng đoàn phải rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, như Công đồng chung Vatican 2 mạnh mẽ nêu rõ về sau này.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, trong khi chúng ta cầu nguyện để án phong chân phước cho vị tôi tớ Chúa Piô 12 được tiến triển tốt đẹp, chúng ta nên nhắc nhớ rằng sự thánh thiện là lý tưởng của ngài, một lý tưởng mà ngài không quên đề nghị cho mọi người. Vì thế, ngài đã đẩy mạnh việc phong chân phước và hiển thánh cho những người thuộc các dân tộc, đại diện của mọi bậc sống, nghề nghiệp, chức năng, và dành nhiều chỗ cho phụ nữ.

Sau thánh lễ, ĐTC đã xuống hầm đền thờ thánh Phêrô để viếng mộ Đức Piô 12 tại đây.

NHẬN XÉT

Những lời của ĐTC Biển Đức 16 trong bài giảng trên đây nhắm bác bỏ những lời vu khống của một số người cho rằng Đức Piô 12 đã không can đảm lên tiếng bênh vực người Do thái trong thời thế chiến thứ hai. Một trong những người đó và gần đây nhất là Rabbi Cohen, trưởng Cộng đoàn Do thái ở Haifa, Israel. Ông được mời phát biểu tại Thượng HĐGM hiện nay về cách giải thích của người Do thái đối với Kinh Thánh, và ông xác tín rằng việc Giáo Hội Công Giáo định phong chân phước cho Đức Piô 12 là điều không tốt và ông tiếp tục xác tín Đức Piô 12 đã không can đảm lên tiếng bênh vực ngừơi Do thái.

Thanh danh của Đức Piô 12 đã bị thương tổn rất nhiều do trào lưu bôi nhọ ngài trong 45 năm qua, dựa trên các tài liệu tưởng tượng, nhất là từ sau vở kịch của Hochhuth ở Đức với tựa đề ”Vị Đại Diện” hồi năm 1963. Vở kịch này tuy là một sáng tác tưởng tượng, nhưng cũng đã thành công trong việc bôi nhọ khuôn mặt của Đức Piô 12 trong bao năm qua.

Tuy nhiên, không phải người Do thái này cũng nghĩ như vậy. Ông Gary Krupp, người Do thái, sáng lập tổ chức ”Pave the Way Foundation”, Dọn đường, có trụ sở tại New York Hoa Kỳ, từ lâu đã đóng góp rất nhiều, thu thập các bằng chứng và tài liệu để làm sáng tỏ sự giúp đỡ của ĐGH Piô 12 dành cho người Do thái.

Hôm 29-9-2008, ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tuyên bố rằng ”Lập trường của Giáo Hội Công Giáo về cuộc tranh luận liên quan đến ĐGH Piô 12 thật là rõ ràng và đã được chính ĐGH Biển Đức 16 tái khẳng định trong bài diễn văn khi tiếp các đại diện của tổ chức Do thái ”Dọn đường”. ĐHY Bertone tuyên bố như trên trong lời tựa cuốn sách do Nhà xuất bản Vatican ấn hành với tựa đề ”Đức Piô 12. Sự thật sẽ giải thoát bạn” (Pio XII. La verità ti farà libero”, do nữ tu Margherita Marchione người Mỹ gốc Ý biên soạn. Cuốn sách này thu tập các chứng từ trực tiếp, các tài liệu, hình ảnh, nhắm đánh tan mọi lời vu khống cho rằng Đức Piô 12 im lặng bất động trước những hành động tàn ác của Đức quốc xã.

Mặt khác, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa thánh, cũng cho biết những lời ĐTC nói về án phong chân phước cho Đức Piô 12 trong bài giảng trên đây chỉ là để bày tỏ sự hiệp ý của ngài với mong ước được phổ biến nơi Dân Chúa, nhưng ĐTC không can thiệp vào tiến trình của án phong cũng như thời gian, nghĩa là việc ký sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của vị tôi tớ Chúa. Sắc lệnh này sẽ mở màn cho giai đoạn kế tiếp là cứu xét phép lạ.

Ngày 8-5 năm 2007, Hội đồng Hồng y và GM thuộc Bộ Phong thánh đã đồng thanh tuyên bố xác nhận các nhân đức anh hùng của vị tôi tớ Chúa Piô 12. Nhưng cho đến nay, ĐTC chưa ký sắc lệnh này vì thấy cần một thời gian để suy nghĩ.

Mục lục

 

Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2008 của ĐTC Bênêđictô XVI

 

Sáng ngày 12-7-2008 ĐTC Bênêđictô XVI đã cho công bố sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo, ngày 19 tháng 10, với đề tài là ”được mời gọi làm đầy tớ và Tông Đồ của Đức Chúa Giêsu Kitô vào đầu thiên niên mới”, trong đó ĐTC tái xác định rằng truyền giáo là bổn phận cấp bách của mọi thành phần Dân Thiên Chúa. Dưới đây là bản dịch từ nguyên văn bằng Ý Ngữ trong website của Tòa Thánh.

“Các Đầy Tớ và Tông Đồ của Đức Chúa Giêsu Kitô”

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, tôi mời anh chị em suy nghĩ về sự cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Mệnh lệnh truyền giáo vẫn tiếp tục là một ưu tiên tuyệt đối cho tất cả những ai đã được rửa tội, được mời gọi để trở thành “những đầy tớ và tông đồ của Đức Chúa Giêsu Kitô” ở đầu thiên niên này. Vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, Đấng Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI đã nói trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi rằng “truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và căn tính sâu xa nhất của Hội Thánh” (số 14). Như một mẫu gương của quyết tâm trong việc tông đồ này, tôi muốn đặc biệt nói đến Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, bởi vì năm nay chúng ta dành một năm đặc biệt để mừng kỷ niệm [sinh nhật] ngài. Đó là Năm Thánh Phaolô, ngõ hầu chúng ta có dịp làm quen với vị Tông Đồ xuất sắc này, là đấng được ơn gọi rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, như Chúa đã công bố: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đi thật xa, đến với các Dân Ngoại” (Tđcv 22:21). Làm sao mà chúng ta không nắm lấy cơ hội năm thánh đặc biết này dành cho các Giáo Hội địa phương, các cộng đoàn Kitô hữu và từng cá nhân mỗi tín hữu, để lan tràn đến tận cùng trái đất việc rao giảng Tin Mừng, là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ tất cả những ai tin (Rom 1:6)?

1. Nhân loại cần được giải phóng

Nhân loại cần được giải phóng và cứu độ. Thánh Phaolô nói, chính các tạo vật đang đau khổ và hy vọng được tham gia vào sự tự do của con cái Thiên Chúa (x. Rom 8:19-22). Những lời này vẫn còn đúng ngay cả cho thế giới hôm nay. Các tạo vật đang đau khổ. Nhân loại đang quằn quại và mong chờ sự tự do thật, mong đợi một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn; mong chờ “ơn cứu độ”. Và người ta biết cách căn bản rằng thế giới mới được mong đợi có vẻ là một người mới, được coi là “con cái Thiên Chúa” . Hãy nhìn kỹ hơn tình trạng thế giới hôm nay. Trên bình diện quốc tế, nếu một đằng có những triển vọng phát triển về kinh tế và xã hội, thì đằng khác lại có những lo lắng nặng nề về chính tương lai. Trong nhiều trường hợp, bạo lực đánh dấu những liên hệ giữa các cá nhân và giữa các dân tộc; sự nghèo đói đang đè nặng trên hằng triệu người; sự kỳ thị và đôi khi cả ngược đãi vì lý do mầu da, văn hóa và tôn giáo, đang làm cho nhiều người phải bỏ quê hương để đi chỗ khác tìm nơi trú ẩn và che chở; những tiến bộ về kỹ thuật, khi không nhắm vào phẩm giá và sự tốt lành của con người, hoặc nhằm phát triển dựa trên tình đoàn kết, mất khả năng của nó như là một yếu tố hy vọng và ngược lại có thể làm cho những sự thiếu quân bình và bất công đang sẵn có thêm trầm trọng. Hơn nữa, còn có những đe dọa liên tục trong quan hệ giữa con người và môi sinh do việc sử dụng tài nguyên cách bừa bãi, với hậu quả có ảnh hưởng ngược lại đối với sự lành mạnh về thể chất cũng như tinh thần của con người. Như thế đời sống tương lai của nhân loại có nguy cơ bị tấn công, dưới nhiều hình thái và phương thức khác nhau.

Trực diện với thảm cảnh “cảm thấy sức nặng của một nỗi ưu tư, bị giằn vặt giữa hy vọng và lo âu” (Gaudium et Spes, 4), chúng ta tự hỏi: nhân loại và tạo vật sẽ ra sao? Có một hy vọng nào cho tương lai, hay đúng hơn, có một tương lai nào cho nhân loại không? Và tương lai ấy sẽ như thế nào? Câu trả lời cho những thắc mắc này đến với chúng ta là những người tin vào Tin Mừng. Đức Kitô chính là tương lai của chúng ta, như tôi đã viết trong Thông Điệp Spe Salvi, Tin Mừng của Người là một sự truyền thông có thể “thay đổi cuộc đời”, đem lại hy vọng, mở cửa thời gian tăm tối và soi sáng tương lai của nhân loại và vũ trụ (x. số 2). 

Thánh Phaolô đã hiểu rõ rằng nhân loại chỉ có thể tìm thấy ơn cứu độ và hy vọng trong Đức Kitô. Vì thế mà ngài đã cảm thấy việc truyền giáo là việc cấp bách và khẩn thiết để công bố “lời hứa sự sống trong Đức Chúa Kitô Giêsu” (2 Tim 1:1), là “niềm hy vọng của chúng ta “ (1 Tim 1:1), ngõ hầu mọi người có thể đồng thừa tự và đồng tham gia vào lời hứa nhờ Tin Mừng (x. Eph 3:6). Ngài ý thức rằng không có Đức Kitô thì nhân loại “không còn hy vọng và không có Thiên Chúa trên thế gian” (Eph 2:12) – “không còn hy vọng vì không có Thiên Chúa” (Spe Salvi, 3). Thực ra, “người nào không biết Thiên Chúa, dù họ có thể đặt hy vọng vào đủ thứ, nhưng rốt cục họ không có hy vọng, không có niềm hy vọng lớn lao có thể nâng đỡ mọi đời sống (Eph 2:21)” (Spe Salvi, 27).

2. Sứ vụ Truyền Giáo là một vấn đề bác ái

Cho nên việc rao giảng Đức Kitô và sứ điệp cứu độ của Người là nhiệm vụ khẩn cấp của tất cả mọi người. Thánh Phaolô đã nói, “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9:16). Trên đường đi Đamascô, ngài đã cảm nghiệm và đã hiểu rằng ơn cứu độ và truyền giáo là việc làm của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Lòng yêu mến Đức Kitô đã đưa ngài đi khắp các nẻo đường của Đế Quốc Rôma như người tiền hô, tông đồ, người rao giảng và vị thầy dạy Tin Mừng, là người nhận mình là “sứ giả mang xiềng xích” (1 Cor 6:20). Tình yêu Thiên Chúa biến ngài thành “mọi sự cho mọi người, để có thể cứu bằng mọi cách” (1 Cor 9:22). Khi nhìn đến kinh nghiệm của Thánh Phaolô, chúng ta hiểu rằng hoạt động truyền giáo là một sự đáp lời Thiên Chúa, Đấng thương yêu chúng ta. Tình yêu của Ngài cứu độ chúng ta và đẩy chúng ta về phiá missio ad gentes (rao giảng cho muôn dân), là một năng lực tinh thần có khả năng làm lan rộng trong gia đình nhân loại  sự hoà hợp, công lý và hiệp thông giữa con người, màu da và dân tộc, là điều mọi người đều mong muốn (x. Deus Caritas Est, 12).  Cho nên, chính Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, đã dẫn đưa Hội Thánh đến những biên cương của nhân loại và mời gọi các nhà truyền giáo đến uống “ở nguồn mạch nguyên thủy, là Đức Chúa Giêsu Kitô, mà từ trái tim bị đâm thâu của Người chảy ra tình yêu Thiên Chúa (Deus Caritas Est, 7). Chỉ từ nguồn mạch này mà các sứ giả của Tin Mừng có thể múc được sự chăm sóc, dịu dàng, trắc ẩn, chấp nhận, sẵn sàng và quan tâm đến những vấn đề của con người , và những nhân đức khác cần thiết để bỏ mọi sự và hoàn toàn hiến thân cách vô điều kiện để rải khắp thế giới hương thơm đức ái của Đức Kitô.

3. Luôn luôn Truyền Giáo

Trong khi việc truyền giáo lần đầu vẫn tiếp tục cần thiết và khẩn trương ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta ngày nay lại phải đương đầu với việc thiếu giáo sĩ và ơn gọi mà trong giáo phận và các tu viện. Cần phải nhắc lại rằng, mặc dù có những khó khăn chồng chất, mệnh lệnh truyền giáo cho muôn dân của Đức Kitô vẫn là một ưu tiên. Không có lý do nào có thể biện minh cho sự chậm trễ hay ứ đọng, bởi vì “mệnh lệnh truyền giáo cho muôn dân tạo thành đời sống và sứ vụ căn bàn của Hội Thánh” (ĐTC Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 14).  Đó là một việc truyền giáo vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu và chúng ta phải đem hết tâm lực để phục vụ nó” (Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 1). Làm sao ở đây chúng ta không nghĩ đến người Macêđônia, là người đã hiện ra trong giấc mơ của Thánh Phaolô và nói lớn tiếng: “Xin hãy qua Macêđônia mà giúp đỡ chúng tôi?” Ngày nay cũng có không biết bao người đang chờ chúng ta loan báo Tin Mừng, đó là những người đang khát khao niềm hy vọng và tình thương. Có bao nhiêu người để cho mình thắc mắc tận thâm tâm về yêu cầu giúp đỡ này, là nhu cầu phát sinh từ nhân loại, và từ bỏ tất cả vì Đức Kitô để truyền lại cho người ta đức tin và tình yêu đối với Người! (x. Spe Salvi, 8).

4. Khốn cho tôi nếu tôi không truyền giáo (1 Cor 9:16)

Anh chị em thân mến, “duc in altum!” Hãy ra khơi của thế gian và, theo lời mời gọi của Đức Kitô, hãy thả lưới mà không sợ hãi, vững tin vào sự trợ giúp luôn luôn của Người. Thánh Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng việc rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào (x. 1 Cor 9:16), nhưng là một nhiệm vụ và một niềm vui. Các hiền huynh Giám Mục thân mến, theo gương Thánh Phaolô, mọi người đều cảm thấy giống như “một tù nhân của Đức Kitô cho Dân Ngoại” (Eph 3:1), biết rằng quý huynh có thể cậy trông vào sức mạnh đến với chúng ta từ Người trong những lúc khó khăn và thử thách. Một Giám Mục được thánh hiến không phải chỉ cho giáo phận của mình, nhưng cho phần rỗi của cả thế gian (x. Redemptoris Missio, 63). Như Thánh Tông Đồ Phaolô, một Giám Mục được mời gọi để vươn đến những người ở thật xa và chưa biết Đức Kitô hoặc chưa cảm nghiệm được tình yêu giải phóng của Người. Quyết tâm của một Giám Mục là làm cho toàn thể cộng đồng giáo phận thành truyền giáo bằng cách tình nguyện đóng góp, tùy theo khả năng, gửi các linh muc và giáo dân đến những Giáo Hội [địa phương] khác để phục vụ việc truyền giáo. Bằng cách này việc rao giảng cho muôn dân (missio ad gentes) trở thành nguyên tắc hợp nhất và hội tụ của toàn thể hoạt động mục vụ và bác ái.

Phần các con, các linh mục thân yêu, là những cộng tác viên hàng đầu của các Giám Mục, các con hãy trở nên những mục tử quảng đại và các nhà truyền giáo nhiệt thành! Nhiều người trong các con trong những thập niên qua đã đến những nơi truyền giáo theo Thông Điệp Fidei Donum mà gần đây chúng ta vừa mừng kỷ niệm 50 năm, và với Thông Điệp này vị Tiền Nhiệm đáng kính của Cha là Đấng Tôi Tớ Thiên Chúa Piô XII đã tạo ra một thúc đẩy trong việc cộng tác giữa các Giáo Hội địa phương. Cha tin chắc rằng sẽ không thiếu sự thôi thúc về truyền giáo này trong Giáo Hội địa phương, dù nhiều nơi đang bị thiếu các giáo sĩ.

Cả chúng con nữa, các tu sĩ nam nữ thân yêu, ơn gọi của chúng con được đánh dấu bằng một ý nghĩa truyền giáo mạnh mẽ, đem việc rao giảng Tin Mừng đến cho mọi người, nhất là những người ở thật xa, qua việc liên tục làm chứng cho Đức Kitô và sống theo Tin Mửng của Người tận gốc. Các tín hữu giáo dân thân thương, các con là những người hoạt động trong những lãnh vực khác nhau của xã hội, được mời gọi để tham gia một cách mỗi ngày một thêm quan trọng trong việc truyền bá Tin Mừng. Như thế một đồi areopagô (x. Tđcv 17:19-34) phức tạp và đa dạng được mở ra để các con truyền giáo: đó là thế giới. Hãy làm chứng bằng đời sống rằng các Kitô hữu “thuộc về một xã hội mới, một xã hội là cùng đích của cuộc hành hương chung của họ và được biết trước trên con đường hành hương ấy” (Spe Salvi, 4).

5. Kết Luận

Anh chị em thân mến, chớ gì việc mừng Ngày Thế Giới Truyền Giáo khuyến khích mọi người có một ý thức mới về nhu cầu cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng. Tôi không quên chân thành ghi ơn sự đóng góp của Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo vào hoạt động truyền giáo của Hội Thánh. Tôi xin cám ơn họ vì sự giúp đỡ họ dành cho tất cả các cộng đồng, nhất là những cộng đồng trẻ. Họ là những công cụ vững chắc để đem lại sinh khí và đào luyện Dân Thiên Chúa theo nhãn quan truyền giáo, và họ nuôi dưỡng sự hiệp thông giữa con người và những điều tốt lành giữa những chi thể khác nhau của Nhiệm Thể Đức Kitô. Nguyện xin cho những quyên góp trong tất cả các giáo xứ trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo trở thành một dấu chỉ hiệp thông và lo lắng cho nhau giữa các Giáo Hội. Sau cùng, xin cho những lời cầu nguyện, là phương tiện tinh thần thiết yếu cho việc truyền bá giữa tất cả mọi người ánh sáng của Đức Kitô, “ánh sáng tuyệt vời” chiếu soi “tăm tối của lịch sử” (Spe Salvi, 49), được thêm sốt sắng hơn bao giờ hết trong dân chúng Kitô giáo. Trong khi phó thác cho Chúa việc tông đồ của các nhà truyền giáo, các Giáo Hội [địa phương] khắp nơi trên thế giới và các tín hữu tham gia và những hoạt động truyền giáo khác nhau cùng cầu xin Thánh Phaolô và Đức Thánh Maria, “Hòm Bia Giao Ước sống động”, ngôi Sao của truyền giáo và hy vọng, cầu bầu, tôi ban Phép Lành Tòa Thánh cho mọi người.

Làm tại Vatican ngày 11 tháng 5, năm 2008.

+ ĐTC Bênêđictô XVI

Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

Mục lục

 

Khai mạc Thượng hội đồng Giám mục bàn về Lời Chúa

 

Vào lúc 9 giỡ rưỡi sáng chúa nhựt 5-10-2008, đức thánh cha đã chủ sự Thánh lễ tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành để khai mạc khóa họp thường lệ lần thứ 9 của Thượng hội đồng giám mục, bàn về Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Đây là lần đầu tiên mà Thượng hội đồng giám mục được khai mạc tại đền thánh Phaolô, và có lý do của nó: một đàng vì chúng ta đang trong năm thánh kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của ngài, và đàng khác, vị thánh tông đồ đã hiến trót cuộc đời cho việc rao giảng Lời Chúa, và trở nên tấm gương cho Giáo hội. Cùng đồng tế với đức Bênêđictô XVI là các nghị phụ và các cộng sự viên: 52 hồng y, 14 giám mục thuộc các Giáo hội Đông phương, 45 tổng giám mục, 130 giám mục, 85 linh mục (gồm các nghị phụ cũng như các chuyên viên). Các lời nguyện và bài đọc Sách thánh trích từ bài lễ chúa nhựt XXVII Thường niên. Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ rưỡi, và đức thánh cha trở về Vatican để chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ, ngài đã giải thích ý nghĩa của cơ quan Thượng hội đồng giám mục, được thành lập năm 1965, nhằm thắt chặt sự thông hiệp giữa hàng giám mục thế giới với vị kế nhiệm thánh Phêrô, qua việc thông tin và bàn luận về những vấn đề quan trọng của Giáo hội. Bên thềm phiên họp lần này bàn về Lời Chúa, Đức Thánh Cha cũng nói đến một dự án do đài truyền hình RAI của Italia khởi xưóng với nhan đề “đọc Kinh Thánh ngày đêm”, bắt đầu từ 7 giờ chiều chúa nhựt hôm qua, với chương đầu tiên của sách Sáng thế do chính ngài đọc, và kéo dài trong vòng 139 giờ, cho đến 1 giờ 25 trưa thứ bảy sắp tới, với sự tham gia của gần 1200 người, thuộc 50 quốc gia. Nhờ đài truyền hình, truyền thanh cũng như internet, Kinh thánh sẽ được mang đến các gia đình.


Trước hết, chúng tôi xin dịch nguyên văn bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin, và tiếp đến, chúng tôi sẽ tóm lược bài giảng Thánh lễ.


Anh chị em thân mến


Sáng nay, với Thánh lễ tại đền thánh Phaolô ngoại thành, khóa họp thường lệ lần thứ Chín cua Thượng hội đồng Giám mục đã được khai mạc. Thượng hội đồng sẽ tiếp diễn ở Vatican trong vòng 3 tuần lễ, bàn về đề tài: “Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội”. Anh chị em đã biết giá trị và chức năng của Thượng hội đồng các giám mục, gồm các đại biểu của toàn thể hàng giám mục, và được triệu tập để mang lại cho vị kế nhiệm thánh Phêrô sự trợ giúp hữu hiệu, qua việc biểu lộ và củng cố dây thông hiệp của Giáo hội. Đây là một cơ quan quan trọng, do vị tiền nhiệm của tôi là đức Phaolô VI thiết lập vào tháng 9 năm 1965 (Tự sắc Apostolica sollicitudo), trong giai đoạn chót của công đồng Vaticanô II, nhằm thực thi một quyết nghị hàm chứa trong sắc lệnh về tác vụ Giám mục (Christus Dominus, số 5). Mục tiêu của Thượng hội đồng giám mục là: cỗ võ sự hợp nhất và hợp tác giữa giáo hoàng và các giám mục trên khắp thế giới; cung cấp những thông tin trực tiếp và chính xác về tình hình và những vấn đề của Giáo hội; đẩy mạnh sự hoà hợp về đạo lý và hoạt động mục vụ; đối diện với những đề tài có tầm quan trọng và hiện đại. Những chức năng này được phối hợp nhờ Văn phòng Tổng thư ký, đặt dưới sự điều hành trực tiếp của giám mục Rôma.

 

Chiều kích “Hội đồng” là một yếu tố cấu thành của Giáo hội, được quy tụ từ khắp mọi dân tộc và văn hóa để trở nên một trong Chúa Kitô, và đi theo Người là “đường, sự thật, sự sống” (Ga 14,6). Thực vậy, danh từ synodos gốc hy lạp gồm bởi giới từ syn (nghĩa là cùng nhau) và odos (nghĩa là đường), gợi lên ý tưởng là “cùng đi, đồng hành”, và đây là kinh nghiệm của Dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Ở khóa họp thường lệ khai diễn hôm nay, sau khi đón nhận ý kiến của nhiều người, tôi đã chọn đề tài “Lời Chúa” để đào sâu trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội, dưới viễn tuợng mục vụ. Công cuộc chuẩn bị đã được tham gia rất là sâu rộng từ các Giáo hội điạ phương trên khắp thế giới. Họ đã gửi những góp ý về Văn phòng Tổng thư ký, và Văn phòng đã soạn thảo Tài liệu làm việc, dụa theo đó, 253 nghị phụ (51 Phi châu, 62 Mỹ châu, 41 Á châu, 90 Âu châu, 9 Đại dương châu) sẽ trao đổi ý kiến, với sự góp phần của nhiều chuyên viên và dự thính viên, nam nữ, cũng như những “đại biểu huynh đệ” của các Giáo hội và vài thượng khách.


Anh chị em thân mến, tôi xin mời tất cả hãy nâng đỡ các công việc của Thượng hội đồng bằng lời cầu nguyện, cách riêng qua việc nài xin sự chuyển cầu của đức Trinh nữ Maria, người môn sinh tuyệt hảo của Lời Chúa.


Như đã nói trên, các bài đọc Sách Thánh của Thánh lễ khai mạc Thượng hội đồng được trích từ bài lễ chúa nhựt 27 mùa Thường niên, với bài Phúc âm thuật lại dụ ngôn về những tá điền bất nhân. Phần chính của bài giảng đã dựa trên dụ ngôn đó. Trước hết, khi nghĩ đến những tá điền đã giết hại các kẻ được ông chủ sai đến để thu lượm kết quả, Đức Thánh Cha tự hỏi: phải chăng điều này cũng đang xảy ra vào thời đại chúng ta, khi con người không những không đếm xỉa đến luật lệ của Thiên Chúa, mà còn muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống? Chúng ta đang chứng kiến nhiều quốc gia trước đây nổi bật về nếp sống đạo và phong phú ơn thiên triệu, nhưng ngày nay đã trở nên nguội lạnh. Hơn thế nữa, có những người tuyên bố “Thượng đế đã chết rồi” và họ tự phong mình làm “Thượng đế”, làm bá chủ định mạng và thế giới, tự ý tung hoành, muốn làm bất cứ điều gì theo sở thích. Tuy nhiên, khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời, thì liệu nó có được hạnh phúc hơn không? Khi con người tự xưng làm chủ vận mệnh và lịch sử, thì liệu họ có kiến tạo được một thế giới tự do, công lý hoà bình không? Hay là ngược lại, thế giới này đang ở dưới sự thống trị của bạo lực, ích kỷ, bóc lột.


Dù sao, sứ điệp của bài Phúc âm mang lại một tia hy vọng: vườn nho sẽ không bị huỷ diệt. Thiên Chúa không bỏ rơi vườn nho của mình. Ngài để cho các tá điến bất chính bị cuốn trôi theo ý đồ đen tối của chúng, nhưng Ngài đã gọi những người khác trung thành để vào vườn nho của mình. Chúa Giêsu là ví mình là “cây nho đích thực”, và ban cho những ai tháp nhập vào với mình được hưởng sự sống dồi dào. Người đã bị sát hại, nhưng Người đã sống lại: sự ác không phải là lời cuối cùng, nhưng chính Đức Kitô mới là lời hằng sống. Giáo hội có trọng trách rao giảng Tin mừng đó, theo gưong thánh Phaolô. Dĩ nhiên, trước đó, các tín hữu phải tự cảnh giác, làm sao để cho Lời Chúa phát sinh hoa trái trong cuộc sống của mình, qua việc chăm chú lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời Chúa biến đổi cuộc sống của mình. Kế đó, Giáo hội cần phải rao truyền Lời Chúa cho thế gới hôm nay, khi mà còn biết ban dân tộc chưa biết Chúa Kitô.


Trong phần kết luận, Đức Thánh Cha cũng nêu bật rằng các tín hữu cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa cũng như bởi Mình Thánh Chúa, như công đồng Vaticanô II đã viết. Xin Đức Mẹ Maria giúp cho chúng ta biết lưu giữ Lời Chúa nhờ việc suy niệm trong tâm hồn.

 

 

Mục lục

 

Thư của Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ hiệp thông và ủng hộ lập trường của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam

 

Uỷ Ban về Công Lý và Hoà Bình Quốc Tế

 

Ngày 1 tháng 10 năm 2008

 

Kính gửi: Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Giám mục Ðà lạt, chủ tịch HÐGM Việt nam

Tòa giám mục

9 Nguyễn Thái Học

Tp. Ðà lạt Việtnam

 

Thưa Ðức Cha

Tôi rất lấy làm buồn khi biết rằng có sự leo thang căng thẳng giữa Giáo hội và chính quyền điạ phương Việt nam, khi xe ủi đất kéo đến điạ điểm trưóc đây là Toà Khâm Sứ ở Hà nội. Diễn biến này càng gây quan ngại cho thoả thuận đã đạt được hồi tháng Hai về cách giải quyết những tranh tụng về tài sản và đất đai bằng đối thoại hoà bình. Chắc chắn khi Ðức ông Parolin dẫn đầu phái đoàn Vatican đến VN hồi tháng 6 năm 2008, đã có thảo luận việc dần dần hoàn trả cho Giáo hội quyền xử dụng những tài sản trước đây đã bị quốc hữu hoá. Hành động đơn phương vừa rồi của chính phủ Việt Nam là trực tiếp đi ngược lại những điều trước đây đã thỏa thuận.

Với cương vị chủ tịch Uỷ ban lo về Công lý và Hoà bình quốc tế thuộc Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, tôi muốn diễn tả tình liên đới với giáo hội VN trong thời điểm khó khăn này. Tôi hoàn toàn ủng hộ bản tuyên bố ngày 25 tháng 9 của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi chính phủ Việt Nam "đối thoại chân thành cởi mở và thẳng thắn trong hoà bình và tôn trọng lẫn nhau" để giải quyết các vấn nạn về đất đai và tài sản. Tôi cũng mạnh mẽ ủng hộ quyết định của Ðức cha đã đứng lên tỏ tình liên đới với Ðức TGM Ngô Quang Kiệt người bị chinh quyền điạ phương vu cáo là khuấy động gây bất ổn.

Chúng tôi luôn nghĩ đến và cầu nguyện cho Ðức cha, các anh em Giám mục, và giáo dân Việt Nam. Nguyện xin tất cả luôn được Chúa ban sức mạnh và ân sủng trong thời kỳ thử thách này.

 

Thân ái trong Chúa Kitô

 

Giám mục Thomas G. Wenski, Giám Mục Orlando

Chủ tịch Uỷ ban về Công lý và Hoà Bình Quốc tế

Mục lục

 

Đêm hội giao lưu văn nghệ mừng Đức tân Giám mục Bắc Ninh  

 

Tối ngày 6-10-2008, tại quảng trường Toà Giám mục Bắc Ninh đã diễn ra đêm hội giao lưu văn nghệ mừng Đức tân Giám mục Bắc Ninh Cosma Hoàng Văn Đạt với chủ đề: TÌNH THƯƠNG và SỰ SỐNG.   

Trong buổi giao lưu văn nghệ này có sự hiện diện của quý đức cha, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ân nhân, quý khách từ khắp nơi trong nước và hải ngoại cùng hàng ngàn giáo dân từ khắp các giáo xứ thuộc Giáo phận Bắc Ninh về tham dự. Cả cộng đoàn chìm ngập trong ánh sáng màu lung linh, những làn điệu quan họ mượt mà đằm thắm và bầu khí hân hoan chào mừng Đức tân Giám mục. Ngoài những liền anh liền chị quan họ, còn có sự góp mặt của anh em dòng Tên, các ca sĩ Công giáo: Bích Ngọc, Hoàng Hiệp và Gia Ân. Đặc biệt xen kẽ những tiết mục văn nghệ là những lời chào mừng và chia sẻ tâm tình của đại diện mọi thành phần dân Chúa Bắc Ninh, dòng Tên và gia đình Đức tân Giám mục. 

Khi cha Giuse Trần Quang Vinh, linh mục đại diện giáo phận Bắc Ninh, tuyên bố khai mạc đêm giao lưu, các thiếu nữ trong trang phục quan họ Bắc Ninh rực rỡ sắc màu ùa lên tặng hoa Đức tân Giám mục cùng quý đức cha, quý cha. Cả cộng đoàn vui mừng vỗ tay hò reo. Có thể nói, đêm nay 125.000 giáo dân trong gia đình giáo phận Bắc Ninh đều hướng lòng về Toà Giám mục để hiệp thông dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và chúc mừng Đức tân Giám mục.

Tiết mục mời nước mời trầu làm toát lên nét văn hoá đậm chất quan họ Bắc Ninh. Và lòng mến khách của người quan họ làm cho quý khách có cảm xúc uống chén nước mà cứ như uống chén tình, chén nghĩa; nhai miếng trầu mà cứ như thể đang nhai, đang cảm nếm niềm hạnh phúc trào dâng:

Có một người đặc biệt lên chia sẻ trong buổi giao lưu là Cha Gomez - Giáo sư Thần học của Đức tân Giám mục khi còn đang theo học tại Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt. Cha Gomez tuy mang dòng máu Tây Ban Nha nhưng tâm hồn lại chan chứa văn hoá, tình cảm của người Việt. Cha nói tiếng Việt thật là siêu! Tưởng cũng nên biết rằng: đến nay đã có nhiều linh mục thuộc các dòng tu khác nhau làm Giám mục Việt Nam, thế nhưng Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt là linh mục người Việt Nam đầu tiên thuộc Dòng Tên làm giám mục.

Đêm hội được khép lại với vũ khúc "gieo mầm tin yêu" như muốn diễn tả: mọi người cùng nhau gieo những hạt giống Tin Mừng Chúa Giêsu, cùng nhau gieo những nghĩa cử bác ái yêu thương để làm cho cả giáo phận Bắc Ninh trở thành khu vườn đầy sức sống và trĩu nặng những hoa trái tin yêu. Xưa thánh Phaolô đã nói: "Phaolô trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa cho mọc lên", thì hôm nay Giáo phận Bắc Ninh cũng có thể nói rằng: Đức cha trồng, chúng con tưới, Thiên Chúa cho mọc lên.

Buổi văn nghệ chào mừng Đức tân Giám mục Bắc Ninh đã kết thúc, nhưng đó chỉ là một sự khép lại về thời gian, còn tình nghĩa thì lại mở ra, kéo dài mãi mãi:

Nguyễn Xuân Trường

Mục lục

 

 

Tường thuật Thánh lễ Tấn phong Giám mục tại Toà Giám mục Bắc Ninh

 

Vào sáng ngày 7-10-2008, Thánh lễ Phong chức Giám mục đã diễn ra tại quảng trường Toà Giám mục Bắc Ninh. Thật là đặc biệt khi thánh lễ diễn ra vào đúng ngày lễ Mẹ Mân Côi, Người bảo trợ Giáo phận Bắc Ninh. Lễ đài được thiết kế đậm nét quan họ Bắc Ninh với mái che là chiếc nón quai thao khổng lồ.   

Ngay từ tối hôm trước đã có rất nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, quý khách gần xa trong nước và hải ngoại, cùng đông đảo giáo dân từ khắp các giáo xứ thuộc Giáo phận Bắc Ninh về tham dự đêm hội giao lưu văn nghệ mừng Đức tân Giám mục, và họ đã ngủ lại qua đêm tại Toà Giám mục để tham dự Thánh lễ Phong chức sáng hôm sau. Ước tính có khoảng trên 10.000 người thuộc đủ mọi thành phần dân Chúa: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cùng quý khách các tôn giáo bạn, và đặc biệt là hơn 100 bệnh nhân phong cùi đã tham dự Thánh lễ Phong chức Giám mục này.

Bầu trời Bắc Ninh buổi sáng Lễ Tấn phong Giám mục trong xanh, chan hoà ánh nắng. Những làn gió thu nhè nhẹ đủ để làm cho người tham dự không đổ mồ hôi dưới ánh mặt trời rực rỡ. Và thật kì diệu khi trong thánh lễ, liên tục xuất hiện những dấu chỉ, những biểu tượng lạ lùng, rực rỡ trên bầu trời.

Đúng 8g45, đoàn đồng tế từ Nhà thờ Chính toà tiến ra lễ đài trong tiếng trống rộn rã, tiếng kèn đồng oai hùng và tiếng vỗ tay giòn giã, đầy ắp niềm vui. Trong khi đó ca đoàn cất lên những lời ca: "Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người…".

Ðức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam chủ tế cùng với hơn 20 giám mục thuộc các giáo phận khắp Việt Nam và khoảng gần 300 linh mục. Ðặc biệt có Cha Gomez - Giáo sư Thần học của Đức tân Giám mục khi còn đang theo học tại Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt - cũng tới tham dự trong dịp đặc biệt này.

Đầu thánh lễ, Ðức cha chủ tế tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam một vị mục tử mới và vui mừng chào đón Đức tân Giám mục trở nên thành viên chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đức cha Chủ tịch tin tưởng Đức tân Giám mục sẽ sống chết với khẩu hiệu giám mục của mình: "Tình Thương và Sự Sống" để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào.

Trong bài giảng, Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên liên hệ giữa lần về quê Nazareth của Đức Giêsu với lần về quê Bắc Ninh của Đức tân Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt. Cả hai đều là những lần về quê vừa quen vừa lạ, về quê không chỉ để thăm hỏi cho bớt nhớ nhung, nhưng là thực thi sứ mạng mới, sứ mạng Thiên sai. Đức tân Giám mục được sai đến cánh đồng truyền giáo Bắc Ninh rộng lớn để làm những điều chính Chúa Giêsu đã làm, để mang Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Bài giảng của Đức cha Giuse là sự kết hợp hài hoà những yếu tố Kinh Thánh, thần học, giáo huấn của Giáo Hội và những nét văn hoá quan họ Bắc Ninh mượt mà, chan chứa tình duyên làm nổi bật 3 vai trò Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả của người mục tử.

Nghi thức tấn phong do Đức cha Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ phong và 2 Ðức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Giáo phận Hải Phòng, và Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục Giáo phận Đà Nẵng, phụ phong.

Bắt đầu là phần giới thiệu tiến chức: Linh mục Ðại diện thỉnh cầu Giám mục chủ phong phong Linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt lên chức giám mục và đọc Tông sắc của Toà Thánh. Sau đó, lần lượt là các nghi thức:

+ Lời hứa của tiến chức.

+ Kinh cầu Các Thánh.

+ Nghi thức Bí tích: Nghi thức đặt tay và Lời nguyện phong chức giám mục.

+ Nghi thức diễn nghĩa: Xức Dầu Thánh và trao sách Phúc Âm - Trao nhẫn Giám mục - Ðội mũ Mitra và trao gậy chủ chăn.

+ Ðức tân Giám mục đứng đội mũ Mitra, cầm gậy mục tử quay về phía cộng đoàn chào chung mọi người - Cộng đoàn vỗ tay chúc mừng. Kế đó, ngài bỏ gậy để nhận hôn bình an của Giám mục chủ phong và tất cả các Giám mục hiện diện.

Sau lời nguyện hiệp lễ, Ðức tân Giám mục nhận mũ Mitra, gậy chủ chăn và được 2 Giám mục phụ phong dẫn đi ban phép lành cho toàn thể cộng đoàn khắp quảng trường Toà Giám mục. Sau đó, đại diện cho toàn thế thiếu nhi, giới trẻ giáo phận, 3 em đã được chính Đức tân Giám mục rửa tội cách đây 18 năm, khi lần đầu tiên ngài trở lại quê hương Bắc Ninh, kính dâng lên Đức cha mới những đoá hoa tươi xinh, thắm tình nghĩa và đầy cảm động.

Tiếp theo, Cha Giuse Trần Quang Vinh đại diện Giáo phận Bắc Ninh tạ ơn Chúa, chúc mừng Đức tân Giám mục và cảm ơn các đấng bậc và mọi thành phần dân Chúa đã về Bắc Ninh tham dự thánh lễ, chung niềm vui lớn với Giáo phận Bắc Ninh.

Thánh lễ kết thúc trong niền hân hoan phấn khởi. Giáo hội Việt Nam, cách riêng Giáo phận Bắc Ninh hân hoan vì có thêm một vị chủ chăn mới. Mọi người hân hoan vì Thiên Chúa đã đoái thương đến dân Người mà ban cho vị mục tử xứng đáng, tài đức và khôn ngoan để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Ðức tân Giám mục sẽ là người phục vụ dân Chúa tại Bắc Ninh, và cùng với các Giám mục Việt Nam chia sẻ trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa trong sứ mạng làm chứng cho Ðức Kitô trên mảnh đất quê hương Việt Nam yêu dấu. Chúng ta nguyện xin Thiên Chúa ban cho Ðức tân Giám mục mạnh khoẻ, dồi dào ơn thánh, để ngài chu toàn nhiệm vụ cao cả và nặng nề Chúa trao phó. Ước mong mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận Bắc Ninh sẽ luôn cộng tác với Ðức tân Giám mục, yêu kính Ðức tân Giám mục. Để rồi, Giáo phận Bắc Ninh sẽ ngày càng phát triển và trở nên dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa cho xã hội hôm nay.

Sau đây xin trân trọng giới thiệu tóm lược tiểu sử Đức tân Giám mục Bắc Ninh:

Năm sinh                 : Ngày 17-6-1948.

Nguyên quán            : Xuân Lai, Sóc Sơn, Hà Nội.

Năm 1954               : Di cư vào miền Nam Việt Nam cùng gia đình.

Năm 1967               : Nhập Dòng Tên tại Sài Gòn.

Học triết học và thần học tại Giáo hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt.

Năm 1976             : Thụ phong linh mục tại Sài Gòn.

Năm 1976-1978     : Giám đốc ứng sinh.

Năm 1986-1995     : Tập sư Nhà Tập.

Năm 1986-1995    : Linh mục chính xứ Thiên Thần kiêm trại phong Thanh Bình, Sài Gòn.

Năm 1995-2002    : Linh mục chính xứ trại phong Thanh Bình.

Năm 2002               : Du học tại Pháp chuyên về linh đạo.

Năm 2005-2008       : Linh hướng Đại Chủng viện Hà Nội.

Ngày 4-8-2008         : Được bổ nhiệm làm Giám mục Bắc Ninh.

Ngày 7-10-2008       : Chính thức được tấn phong Giám mục Chính toà Bắc Ninh.

Giáo phận Bắc Ninh nằm trên địa bàn 5 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; 4 huyện thuộc thủ đô Hà Nội và một số xã, huyện thuộc các tỉnh: Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Hưng Yên và Hải Dương. Giáo phận trải rộng trên diện tích 24.600 km2 với tổng dân số gần 9 triệu người, trong đó có khoảng 125.000 tín hữu Công giáo, chiếm tỷ lệ 1,38 %. Tổng số linh mục đang thi hành mục vụ tại giáo phận là 41. Trên địa bàn giáo phận, miền thượng du có một số đồng bào dân tộc ít người như: Sán Dìu, H'mông, Dao, Mèo, Cao Lan, Hoa, Tày, Nùng sinh sống.

Đức tân Giám mục đã nói: "Thiên Chúa đã dùng Đức Hồng y Phaolô Giuse giúp Giáo phận Bắc Ninh "Tin ở Tình Yêu", tình yêu của Chúa Cha, đã dùng Đức cố Giám mục Giuse Maria để cùng với cả giáo phận "xin cho mọi người nên một", như ước nguyện của Chúa Con, thì giờ đây xin Chúa Cha và Chúa Con ban Thánh Thần là chính "Tình thương và Sự sống" của Thiên Chúa cho giáo phận, để toàn thể Dân Thiên Chúa vùng Kinh Bắc bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống, tức là đón nhận và chia sẻ tình thương và sự sống cho mọi người. Xin Đức Mẹ La Vang giúp con cái Mẹ trong nhiệm vụ cao quý này".

Nguyễn Xuân Trường

Mục lục

 

Hiệp sĩ Đại Thánh Giá đến Vatican


 Nhận lời mời của Toà Thánh, trong 2 tuần lễ cuối tháng 9 vừa qua, Hiệp sĩ Đại Thánh Giá G.B. Lê Đức Thịnh cùng phu nhân và con gái đã sang thăm Toà Thánh Vatican. Gia đình Hiệp sĩ đã được hướng dẫn đi thăm nơi làm việc của nhiều Bộ, Uỷ Ban thuộc giáo triều. Đặc biệt, trong buổi đọc Kinh Truyền Tin cùng người hành hương tại Castel Gandolfo, Đức Giáo Hoàng Beneđictô XVI đã thăm hỏi, trò chuyện và ban Phép lành cách riêng cho gia đình ông Thịnh.

 

Nhà doanh nghiệp trẻ Lê Đức Thịnh - chủ doanh nghiệp Thịnh Phát, ngụ tại Giáo xứ Phúc Nhạc, xã Gia Tân 3, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai - được phong tước “Hiệp sĩ Đại Thánh Giá”, một tước hiệu cao quý do Đức Giáo hoàng Beneđictô XVI trao tặng, vì có nhiều đóng góp lớn lao cho Giáo Hội và xã hội. Thánh lễ trao tặng tước hiệu này diễn ra tại Giáo xứ Phúc Nhạc vào ngày 5-11-2007 với 3 giám mục và nhiều linh mục đồng tế.

 

Trong dịp này, người bạn đời của Lê Đức Thịnh (chị Nguyễn Thị Kim Yến) cũng được phong tước hiệu Phu nhân Hiệp sĩ Đại Thánh Giá, do thường xuyên hết lòng giúp chồng tham gia các việc bác ái, từ thiện.

 

Lê Đức Thịnh và vợ tại Thánh lễ trao tặng tước hiệu Hiệp sĩ Đại Thánh Giá

Tước hiệu Hiệp sĩ Đại Thánh Giá có từ năm 1831, thể hiện sự tri ân của Giáo Hội đối với giáo dân có công lớn đối với Giáo Hội và xã hội, sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc; thanh gươm hiệp sĩ mà Giáo hoàng ban cho Hiệp sĩ thể hiện niềm tin, đức hy sinh đối với những gì thiêng liêng, cao quý nhất.

 

Được biết, ông Lê Đức Thịnh là người đầu tiên ở Việt Nam, và cũng là người đầu tiên ở châu Á, được phong tước hiệu Hiệp sĩ Đại Thánh Giá. Đây là lần đầu ông thăm Vatican.

 

TƯỞNG KHANH

Mục lục

 

 

Giáo phận Xuân Lộc: Thánh lễ Tạ ơn hoàn tất công trình Toà Giám mục và Đại Chủng viện
 

Sáng ngày 26-9-2008, Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc, đã chủ sự Thánh lễ Tạ ơn việc cơ bản hoàn tất công trình Toà Giám mục và Đại Chủng viện Thánh Giuse (cơ sở II) tại Toà Giám mục Xuân Lộc, số Y.70 Hùng Vương, P. Xuân Bình, Tx. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Thánh lễ diễn ra thật long trọng với sự hiện diện của nhiều giám mục, gần 500 linh mục trong và ngoài giáo phận và gần 10.000 giáo dân thuộc gia đình Anrê của Giáo phận Xuân Lộc, cùng với đông đảo ân nhân xa gần, những người đã đóng góp cách này cách khác cho việc hoàn tất công trình này.

Mở đầu Thánh lễ, Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh đã thay lời cộng đồng dân Chúa Giáo phận Xuân Lộc gửi đến những người hiện diện lời chào mừng “trân trọng và nồng nhiệt, bình an và ân sủng của Đức Kitô”. Ngài nhấn mạnh rằng “sự hiện diện của đông đảo các giám mục càng làm cho không khí vui tươi lại càng vui tươi hơn, linh thánh lại càng linh thánh hơn, và tình thương mến lại càng được nhân lên gấp bội”. Và ngài khẳng định với ý thức những hồng ân có được là từ tình thương của Thiên Chúa và từ tình thương của Giáo hội mẹ Việt Nam và Giáo hội mẹ toàn cầu, chắc chắn ngày lễ đặc biệt này sẽ được ghi sâu vào trang sử của Giáo phận Xuân Lộc.

Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong bài giảng lễ, cũng không giấu được niềm vui mừng khi diễn tả đây là một ngày hạnh phúc, được góp nhặt từ những hy sinh, cố gắng cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về thời giờ và sức khoẻ. Ngài mời gọi mọi người nhìn vào Đức Maria trong bài Magnificat: Mẹ đã có một niềm vui lớn lao và sâu lắng vì Mẹ nhận ra được Thiên Chúa đã thực hiện biết bao điều kỳ diệu nơi Mẹ, hơn hết là Ngài đã thực hiện giao ước, thực hiện lời hứa là ban ân sủng, tình yêu và bình an cho dân Ngài; lòng Mẹ tràn ngập Chúa Thánh Thần và Mẹ đã dâng lời chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa. Vì vậy, ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương Đức Maria, tạm gạt qua một bên sự thành công, sự hoành tráng, long trọng bề ngoài của buổi lễ để trở về với tâm hồn lắng đọng, để cảm tạ Đấng vô cùng cao cả, vì Ngài đã đoái nhìn đến những kẻ tớ hèn như chúng ta, nhất là đã thương ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài. Ngài nhấn mạnh rằng dù trải qua biết bao khó khăn và thử thách, Chúa vẫn hiện diện và có cách cũng như có chương trình hành động riêng của Ngài và mời gọi chúng ta đi theo con đường huyền nhiệm này, mà nhiều khi với con mắt phàm trần chúng ta không nhận ra được.

Ngài nói: “Chúng ta phải xác tín rằng, chính Mẹ tự xưng là kẻ tớ hèn và Mẹ đã được nâng lên. Chúng ta cũng vậy, chúng ta sẽ được Chúa đoái thương và đón nhận vào dân riêng của Ngài, vào ngôi Nhà Chung, vào vườn ươm của Giáo Hội. Như Đức Maria, sau khi nhận ra ý Chúa, sau khi tràn đầy Thánh Thần, và biết Chúa Cứu Thế đến nơi mình, Mẹ vội vã lên đường đến với người khác và chia sẻ niềm vui ấy với người khác; mỗi người chúng ta cũng vậy, khi nhận được ơn Chúa, chúng ta hãy noi gương Mẹ, mạnh dạn lên đường ra đi phục vụ và làm theo Lời Chúa dạy bảo. Chỉ khi nào chúng ta phục vụ được như Chúa Giêsu thì Tin Mừng mới thực sự được rao giảng một cách trọn vẹn và đến được với mọi người”.

Cuối Thánh lễ, Đức Hồng y G. B. Phạm Minh Mẫn cũng đã chia sẻ ngài cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và Ngài đang làm cho Giáo phận Xuân Lộc lớn lên từng ngày. Cũng như những giáo phận khác, 60 năm trước, vùng đất này chỉ là những cách rừng, đầy cỏ dại… nhưng Chúa đã gieo hạt giống hồng ân cứu độ, hạt giống tin cậy mến, hạt giống ơn gọi linh mục và tu sĩ trên mảnh đất này, và các thành phần dân Chúa đã chung sức vun xới cho những hạt giống đó mọc lên và sinh hoa trái. Ngài nói: "Tạ ơn Chúa vì Chúa đã đồng hành, yêu thương và gieo rắc niềm tin và hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh, và hậu quả của nó là nghèo nàn, lạc hậu và chia rẽ trong cộng đồng dân tộc. Những thái độ đối kháng, loại trừ nhau bằng tuyên truyền, bạo lực kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa chấm dứt. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa cho Giáo hội Việt Nam nói chung và cho Giáo phận Xuân Lộc nói riêng. Xin Ngài ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để mỗi người cảm nhận được Chúa luôn hiện diện, đồng hành, yêu thương và dẫn dắt chúng ta vượt qua giai đoạn khó khăn và thử thách; để mỗi người chúng ta biết yêu thương nhau...".

Sau Thánh lễ, Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh đã ban Phép lành Toà Thánh cho những người tham dự Thánh lễ Tạ ơn này. Sau đó, tất cả các khách mời cùng tham dự tiệc mừng tại Phòng Tiếp tân Toà Giám mục.

Giáo phận Xuân Lộc được Toà Thánh ban sắc lệnh thành lập ngày 14-10-1965 và bổ nhiệm Đức cha Giuse Lê Văn Ấn làm giám mục tiên khởi. Sau gần 3 tháng thành lập giáo phận, ngài được Công ty Cao su SHIP sang nhượng một khu đất rộng 6 hecta và bắt đầu xây dựng Toà Giám mục. Ngày 13-1-1967, Đức cha Giuse đặt viên đá đầu tiên xây dựng cơ sở Toà Giám mục và Tiểu Chủng viện. Công trình này được khánh thành ngày 19-3-1970, sau hơn 3 năm xây dựng.

Sau khi Đức cha Giuse qua đời năm 1974, Toà Thánh trao quyền lãnh đạo giáo phận cho Đức cha Đa Minh Nguyễn Văn Lãng. Một năm sau, năm 1975, ngài tấn phong Giám mục phó cho Cha Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật với quyền kế vị. Năm 1988, Đức cha Đức cha Đa Minh Nguyễn Văn Lãng qua đời, Đức cha Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật chính thức cai quản giáo phận trong giai đoạn đất nước đổi mới. Ngày 7-5-1992, Toà Thánh đặt Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm làm Giám mục Phụ tá Giáo phận Xuân Lộc. Cũng trong thời gian này, Cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh được đặt làm Tổng Đại diện giáo phận. Trong suốt những năm chăn dắt giáo phận, Đức cha Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật vẫn luôn thao thức về việc huấn luyện chủng sinh, những linh mục tương lai. Vì vậy, việc mở mang Đại Chủng viện tại Xuân Lộc, thành lập giáo phận mới và đề cử người kế vị là ao ước của ngài.

Ngày 30-9-2004, Toà Thánh chính thức được chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Đức cha Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật, đồng thời bổ nhiệm Cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh làm Giám mục Chính toà giáo phận. Ngay từ đầu sứ vụ giám mục, Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh đã từng bước thực hiện ước mơ của Đức cố Giám mục Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật và của giáo phận. Cũng trong thời gian này, Toà Thánh thành lập Giáo phận Bà Rịa (ngày 5-12-2005), tách từ Giáo phận Xuân Lộc, và bổ nhiệm Đức cha Tôma Nguyễn Văn Trâm làm giám mục tiên khởi. 10 ngày sau, ngày 14-12-2005, Chính phủ Việt Nam ký quyết định chấp nhận cho thành lập cơ sở II Đại Chủng viện Thánh Giuse  TP. Hồ Chí Minh tại Xuân Lộc.

Công trình Toà Giám mục và Đại Chủng viện, chính thức khởi công từ ngày 8-8-2006, được kiến trúc vững chắc và thoáng mát, thích hợp cho việc đào tạo chủng sinh và sinh hoạt mục vụ. Ngoài việc đào tạo các linh mục tương lai, Toà Giám mục và trung tâm mục vụ nơi đây sẽ là điểm quy tụ và phục vụ nhu cầu tôn giáo như bồi dưỡng, học tập và sinh hoạt, tĩnh tâm... của mọi thành phần dân Chúa của giáo phận.

Theo Lm. Giuse Nguyễn Năng, Giám đốc Đại Chủng viện Thánh Giuse (cơ sở II), ngày 1-10-2006, Đại Chủng viện đã khai giảng khoá học đầu tiên với 35 thầy lớp bồi dưỡng, 75 thầy năm I cho riêng giáo phận Xuân Lộc. Khoá đầu tiên cho 4 giáo phận Xuân Lộc, Bà Rịa, Đà Lạt và Phan Thiết được khai giảng ngày 27-2-2008 với 217 chủng sinh, gồm 4 lớp (2 lớp triết và 2 lớp thần). Các khoá học sẽ được mở hằng năm, và niên khoá mới sẽ khai giảng vào ngày 2-10 tới đây.

Hiện tại, Giáo phận Xuân Lộc là giáo phận có số giáo dân đông nhất, 816.342 người, với 1.830 tu sĩ nam nữ, 366 linh mục dòng triều (theo thống kê của giáo phận vào ngày 31-12-2007) cùng với nhu cầu truyền giáo trên 1 triệu lương dân. Trong chiều hướng hiện đại hoá, đô thị hoá đất nước, Giáo phận Xuân Lộc vẫn còn đón nhận thêm dân số lương giáo từ khắp nước đổ về. Vì vậy, Toà Giám mục và Đại Chủng viện có ý nghĩa lớn lao đối với giáo phận và công trình này muốn đáp ứng nhu cầu mới của giáo phận. Cùng với công trình này, Đức cha Đa Minh tha thiết mời gọi cả giáo phận hướng đến công trình nhân sinh, ân nghĩa và phúc lợi: nhà hưu dưỡng cho các linh mục già cả yếu đau, trung tâm mục vụ, bệnh viện, nhà ở cho di dân và trường dạy nghề…

UBTTXH/HĐGMVN

Mục lục

 

Khi bày tỏ tình yêu qua việc đối thoại, mình có thể cảm nhận được sự hiệp thông”

 

Phỏng vấn ĐGM Antôn Vũ Huy Chương  sau 5 năm trong vai trò chủ chăn coi sóc Giáo phận Hưng Hóa

Đầu tháng Đức Mẹ Mân Côi năm 2003, Giáo phận Hưng Hoá sau 11 năm trống toà  đã có ĐGM Chính toà trông coi: Đức cha Antôn Vũ Huy Chương (ĐGM.VHC). Sau 5 năm gầy dựng lại giáo phận, vị chủ chăn gốc Hưng Hoá nhưng đến từ Giáo phận Cần Thơ đã có dịp nhìn lại chặng đường đã qua…

CGvDT: Kính thưa Đức cha, như vậy là đã tròn 5 năm Đức cha được Toà Thánh đặt làm Giám mục Giáo phận Hưng Hoá. Ngày mới được bổ nhiệm, trong lần đầu tiên trả lời phỏng vấn CGvDT, Đức cha đã tâm sự: “Một trong những khó khăn đối với tôi lúc này có lẽ là phải thích nghi với hoàn cảnh mới”. Sau 5 năm, chắc là lo lắng này đã vơi đi nhiều?

ĐGM.VHC: Trước hết, xin cám ơn Ban Biên tập báo Công giáo và Dân tộc đã nhớ đến ngày tôi thụ phong giám mục cách đây 5 năm. Thời gian qua đi thật mau. Lúc đầu tôi nghĩ đến một trong những khó khăn là phải lo thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng nhìn lại 5 năm qua thì lúc nào cũng có cái mới để mà lo! Có người hỏi tôi: “Đức Cha đã quen với Hưng Hoá chưa?”. Tôi trả lời: “Không quen cũng phải quen!”. Có lúc tự nhiên tôi nghĩ rằng: “Khi được Toà Thánh hỏi ý kiến trước khi bổ nhiệm, tiếc là mình đã nhận lời làm giám mục”. Nhưng rồi tôi lại thầm thưa: “Xin Vâng” như khẩu hiệu tôi đã chọn từ ban đầu. Thế đấy!

CGvDT: Chúng con còn nhớ, khi Đức cha được tấn phong giám mục, thống kê của Giáo phận Hưng Hoá về nhân sự là: “Số giáo dân khoảng 200.000, số linh mục là 24. Giáo phận có 35 đại chủng sinh, 100 tu sĩ, 32 giáo xứ, 43 “chuẩn xứ”, 410 họ đạo”... Còn bây giờ, tình hình nhân sự ở Hưng Hoá là thế nào, thưa Đức cha?

ĐGM.VHC: Về tình hình nhân sự ở Hưng Hoá hiện nay: Số giáo dân là 217.000 trong tổng số dân là 6.881.000, số linh mục là 55 (có một linh mục Dòng Đa Minh). Giáo phận hiện có 40 chủng sinh tại Đại Chủng viện Hà Nội, 162 nữ tu Dòng Mến Thánh Giá (chỉ có một Dòng duy nhất), 75 giáo xứ, 498 giáo họ.  Hiện có 5 linh mục đang tu nghiệp nước ngoài, còn 50 vị ở nhà, vẫn chưa đủ để mỗi xứ có một linh mục. Hy vọng giữa năm 2009, giáo phận chúng tôi sẽ có thêm 7 tân linh mục. Số ứng sinh linh mục và tu sĩ còn rất đông. Tạ ơn Chúa. Cánh đồng truyền giáo ở Hưng Hoá thật bao la bát ngát. Đúng là lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.

CGvDT: Giáo phận Hưng Hoá được xem là giáo phận lớn nhất nước về mặt diện tích (khoảng 50.000 cây số vuông), nằm trên địa bàn 10 tỉnh miền Tây Bắc Việt Nam: Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên và Lai Châu, trong đó 9 tỉnh là vùng đồi núi, lại có đông đảo đồng bào các dân tộc. Sau một chặng đường dài nhìn lại, Đức cha cảm nhận được điều gì?

ĐGM.VHC: Về mặt diện tích thì lớn thật đấy, nhưng toàn đồi núi thôi, kinh tế khó phát triển, nhất là ở vùng đồng bào các dân tộc ít người. Giáo dân ở Lai Châu cách xa Toà Giám mục nhất, khoảng 700 cây số. Trong những năm qua, đời sống nhân dân tuy đã được nâng cao hơn trước nhờ phương hướng đổi mới về kinh tế và đường sá được tu bổ, nhưng ở những vùng nông thôn sâu, dân chúng còn vất vả lắm, nhiều người trẻ phải đi kiếm sống tại các đô thị. Đó là điều tôi trăn trở nhưng lại vượt quá tầm tay của mình! Riêng về công việc mục vụ thuộc chức năng giám mục, trong 2 năm đầu, tôi đã đi thăm được khoảng 400 họ đạo lớn nhỏ tại 7 tỉnh. Mãi đến năm 2006, khi được chính quyền 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu tiếp, tôi mới có dịp đi thăm giáo dân trong 3 tỉnh này là những tỉnh hiện có khoảng 5.000 giáo dân nhưng chưa có nhà thờ và linh mục thường trực. Đầu năm 2008 vừa qua, khi lên thăm lại giáo dân ở đây, tôi nhận thấy việc sinh hoạt tôn giáo được dễ dàng hơn tại các nhà tư mà tôi đã đăng ký từ năm 2006. Tôi hy vọng và tin tưởng rằng chính quyền tại 3 tỉnh trên từng bước sẽ hiểu biết hơn nữa về nhu cầu tôn giáo của một bộ phận công dân trong tỉnh để tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo được bình thường như ở các tỉnh khác. Trong 2 năm qua, một linh mục rất bận công việc tại 2 giáo xứ Sơn Tây và Hoà Bình, nhưng cứ 2 tuần một lần, chưa kể những lần đi kẻ liệt, phải vất vả vượt 300 cây số để đến với giáo dân Sơn La được một ngày. Một linh mục khác từ SaPa phải đi 80 cây số mới đến Lai Châu, rồi đi thêm 200 cây số nữa mới đến Điện Biên, để phục vụ nhu cầu tôn giáo chính đáng của bà con giáo dân. Nói chung, những linh mục nhiệt tình tông đồ thì dù có vất vả vẫn thấy rất hạnh phúc.

CGvDT: Khi được Toà Thánh bổ nhiệm làm thành viên mới của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức cha đã có một tâm sự khá chân thành và được nhiều người đồng tình, chia sẻ, đó là câu: “Chức vụ chỉ là để phục vụ, để làm “tôi tớ”, nhưng khuynh hướng thống trị luôn là một cám dỗ đối với người có quyền bính, đây là điều tôi băn khoăn khi lãnh nhận chức vụ”. Phải chăng, vì nhìn thấy trước được khuynh hướng đáng lo ngại này nên trong cương vị chủ chăn của giáo phận, Đức cha đã xây dựng được một đại gia đình Hưng Hoá đầy thân tình, bình đẳng và mọi người đều tôn trọng, thương yêu nhau…, như nhận xét của nhiều linh mục và giáo dân trong giáo phận của Đức cha hiện nay?

ĐGM.VHC: Đó là điều tôi ước mong. Ước gì được như vậy! Bây giờ tôi thấy mình dễ nóng tính hơn lúc ban đầu mới về giáo phận; dường như từ vô thức có lúc trồi lên ý nghĩ mình “là người có quyền bính” nên đã “sa chước cám dỗ” rồi chăng?! Tôi càng ngày càng phải “chống trả chước cám dỗ” đó nhiều hơn!

CGvDT: Cũng trong bài trả lời phỏng vấn CGvDT cách đây 5 năm, Đức cha cho biết rất quan tâm đến tinh thần Tông huấn Giáo Hội tại Á châu là “hiệp thông nhờ đối thoại vừa là khởi điểm, vừa là phương thức, vừa là đích điểm của việc Phúc Âm hoá”. Trong thời gian qua, ở Giáo phận Hưng Hoá, hình như tinh thần này đã được Đức cha vận dụng uyển chuyển và đã gặt hái được một số kết quả?

ĐGM.VHC: Định hướng là như thế, nhưng thực tế không phải dễ, vì hiệp thông và đối thoại cần nhẫn nại và từ bỏ mình nhiều lắm. Tôi nghĩ ai cũng có nhu cầu “yêu”“được yêu”; vì thế, khi mình bày tỏ tình yêu qua việc đối thoại, mình có thể cảm nhận được sự hiệp thông, cho dù chưa có được sự hiệp nhất. “Hiệp thông nhờ đối thoại như khởi điểm và phương thức” là chủ trương của Giáo Hội mà chính Thiên Chúa đã thực hiện, đặc biệt nhờ Đức Giêsu Kitô, nhưng tiến đến “đích điểm” là việc của Chúa Thánh Thần mà mình cộng tác vào. Nói theo kiểu dân gian, kết quả là nhờ “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”.

CGvDT: Đâu là những điểm làm Đức cha hài lòng và đâu là những trăn trở còn tồn đọng ở Đức cha đối với giáo phận Hưng Hoá?

ĐGM.VHC: Trong năm đầu tiên, có người gặp tôi hỏi thăm rằng: “Đã xây dựng được công trình nào chưa?”. Tôi thấy cũng sốt ruột, vì khi đi thăm hầu hết các họ đạo tại Giáo phận Hưng Hoá, tôi ghi nhận có 270 nơi chưa có nhà thờ, khoảng 100 nhà thờ xuống cấp cần xây sửa; Toà Giám mục thì không đủ chỗ đáp ứng các sinh hoạt chung, vì được xây dựng năm 1990 khi chỉ có 17 linh mục và ít khi giáo dân có thể quy tụ về; tu viện Mến Thánh giá cách đây 50 năm đủ chỗ cho 24 nữ tu lúc đó, nay thì số nữ tu và ứng sinh tăng lên, đã trở nên chật trội và xuống cấp trầm trọng... Nhưng chúng tôi đã thống nhất với nhau để ưu tiên lo việc đào tạo nhân sự sau thời gian 11 năm “trống toà”. Vì thế trong 5 năm qua, giáo phận đầu tư vào việc tổ chức những khoá thường huấn cho các linh mục, tu sĩ, những khóa huấn luyện giáo lý viên, ban hành giáo, thừa tác viên phụng vụ và người phụ trách thánh nhạc, thánh ca... Tuy nhiên, mỗi năm cũng cố gắng xin kinh phí để xây sửa mươi nhà thờ lớn nhỏ mà vẫn thiếu hụt. Năm nay, chúng tôi bắt đầu lo xây dựng tu viện Mến Thánh Giá cạnh Nhà thờ Chính toà, cách nơi ở hiện nay 4 cây số. Năm tới dự tính đại tu “nhà tràng” (Tiểu Chủng viện) Hà Thạch tại tỉnh Phú Thọ để làm trung tâm mục vụ, nơi sinh hoạt chung cho các linh mục và giáo dân. Toà Giám mục vẫn ở thành phố Sơn Tây, nay thuộc Thủ đô Hà Nội, chỉ cần tu sửa ít thôi để được sử dụng như “trụ sở hành chính” của giáo phận.

CGvDT: Làm giám mục ở một giáo phận có nhiều nét văn hoá khác biệt, do giáo dân sống từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến vùng cao, với nhiều dân tộc anh em như Mông, Mường, Thái, Dao..., có lẽ Đức cha có nhiều kỷ niệm đáng nhớ?

ĐGM.VHC: Vâng, kỷ niệm thì nhiều lắm! Có lần tôi đi ngựa lên núi thăm bà con giáo dân H’Mông tại tỉnh Yên Bái, sau 2 ngày làm việc mục vụ, một ông trong Ban hành giáo hỏi tôi: “Đức Cha có đi tắm không ?”. Tôi hỏi: “Tắm ở đâu?”. Ông trả lời đơn sơ: “Mời Đức Cha xuống suối tắm”. Tôi đành “để dành” về nhà tắm vậy! Họ dễ thương và chân thành lắm. Vị Giám mục đầu tiên của Giáo phận Hưng Hoá, Đức Cha Ramond Lộc, đã nghỉ hưu và qua đời tại SaPa với người dân tộc H’Mông và được an táng tại đó.

CGvDT: Xin hết lòng cảm ơn Đức cha đã cho độc giả CGvDT biết một số thông tin về Giáo phận Hưng Hoá hiện nay.

LÊ HỮU TUẤN thực hiện

Mục lục

 

 

Thánh Lễ Tạ Ơn, Làm Phép và Khánh Thành Nhà Tình Thương Trọng Đức

Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” ( Mt 25, 40 ).

MỘT TRÁI TIM BIẾT NÓI :

Tôi vẫn thích dùng cụm từ :” Trái tim nhạy cảm, trái tim biết nói “ để diễn tả những con người có lòng quảng đại, biết mến Chúa yêu người. Nhà Tình Thương Trọng Đức do vợ chồng ông Bùi văn Thu và hai người em của ông bà Thu là cô Hằng và Anh Hổ tổ chức điều hành.Nói đến những con người này, chúng ta như cảm thấy có một cái gì đó thật gần gũi, thật đơn giản và dân dã. Bởi vì họ chỉ là những con người lao động chân chính, ăn chắc mặc bền. Họ xuất thân từ giới lao động, dân quê. Được các báo đài phỏng vấn, ông Thu rất chân thành trả lời :” Tôi chẳng biết gì về thuốc. Tôi chẳng xuất thân từ trường y hay học tại nơi đào tạo trở thành các thầy thuốc Nam, thuốc Bắc. Tôi chỉ có tình thương, có con tim “. Câu nói thật dễ thương, thật đơn giản của một con người chỉ lấy tấm lòng để yêu thương, để giúp đỡ, để xoa dịu những nỗi đau khổ của những người bị bệnh tâm thần. Như cha sở Thanh Bình Matthêu Đinh Viết Hoàng giảng :”…Mọi người sinh ra đều là con của Chúa, họ cũng phải được yêu thương như mọi người “. Tôi rất tâm đắc với câu nói của Ngài. Có đến tận nơi, chúng ta mới cảm phục sự hy sinh của những người lo cho những bệnh nhân tâm thần. Từ một nhóm thật nhỏ khởi đầu cách đây hơn hai năm, hôm nay đã có hơn hai trăm bệnh nhân tâm thần trên khắp đất nước đến đây để xin tá túc, để xin được giúp đỡ. Một cơ sở riêng cho bệnh nhân nam và một cơ sở riêng cho bên nữ.

Ông Thu và vợ ông lo giúp đỡ cho những bệnh nhân tâm thần nam. Cô Hằng và anh Hổ lo lắng cho những bệnh nhân nữ.

Theo lời Cha xứ Thanh Bình :” Đức Cha muốn cơ sở Tình Thương Trọng Đức là một điểm sáng cho Hội Thánh, cho Giáo Phận Đà Lạt và cho giáo xứ Thanh Bình “. Nhà Tình Thương Trọng Đức khởi đi từ những tâm hồn, từ những con người bé nhỏ, những con người chân chất dân dã, chân chất núi rừng, những con người bé nhỏ giữa mọi người nhưng lại có trái tim trong sáng, trái tim biết cảm thông với tha nhân, với đồng loại, trái tim biết yêu thương hay diễn tả cách nôm na, trái tim biết nói. Tôi vẫn suy nghĩ đây là những con người có sự bình an thật, sự an bình nảy sinh từ trái tim mới.” Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”( Lc 2, 19 ). Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Galát :” Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : Áp ba, Cha ơi “( Gal 4, 6 ). Trái tim của những con người bé nhỏ này trở nên đẹp vì họ gặp được trong chính trái tim của họ tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, một tình yêu mới mẻ được Chúa Giêsu trao ban cho họ. Chính nơi điểm này mà nhà Tình Thương Trọng Đức đang trở nên điểm sáng cho Hội Thánh, cho Giáo phận Đà Lạt và cho Giáo xứ Thanh Bình.

MỘT THÁNH LỄ TRANG NGHIÊM SỐT SẮNG, ĐẠO ĐỨC :

Thánh lể được cử hành vào lúc 10 giờ 00, ngày 07 tháng 10 năm 2008 nhằm ngày Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Anh chị em giáo dân gồm Kinh và Dân tộc đứng chật tầng nhà nguyện và trong sân khuôn viên nhà Tình Thương. Đoàn đồng tế gồm 09 cha kể cả cha chủ tế Matthêu Đinh Viết Hoàng. Tiếng hát của ca đoàn Thanh Bình hôm nay thật dễ thương và truyền cảm, những bài hát quen thuộc nhưng chứa chan lòng đạo đức.Trong bài giảng cha chủ tế đã nêu bật nét đẹp của nhà Tình Thương Trọng Đức được khánh thành và làm phép trong ngày mừng kính Mẹ Mân Côi. Đây là công trình góp tay của nhiều người ở nhiều nơi, những tấm lòng vàng, những trái tim biết yêu thương những người bệnh hoạn, những người bị tâm thần giầy vò, xâu xé. Evà cũ đã cám dỗ Adong và làm cho loài người phải chết thì Evà mới xuất hiện đem sự sống mới cho loài người. Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Cứu Thế bởi phép Chúa Thánh Thần và đã hạ sinh Chúa Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và con người. Đức Cha Giáo phận vì phải có mặt ở Bắc Ninh để dự lễ tấn phong Giám Mục cho Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, nên Ngài không thể hiện diện trong thánh lễ tạ ơn sáng nay, nhưng Ngài luôn quan tâm, động viên, khích lệ nhà Tình Thương Trọng Đức. Cha Quản hạt Đức Trọng Giuse Nguyễn Văn Bảo cũng dự lễ tấn phong Đức Cha Đạt, nên Ngài cũng không thể có mặt trong thánh lễ này. Tuy nhiên, Đức Cha mong ước nhà Tình Thương Trọng Đức trở thành điểm sáng. Điểm sáng nói lên tình thương, nói lên Tin Mừng của Chúa và hơn hết nói lên chính Bộ Mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu.Thiên Chúa là tình yêu như thánh Gioan đã viết. Con người được dựng nên cho tình yêu và phải trở nên một quà tặng yêu thương. Câu chuyện nhỏ mà Cha chủ tế gợi lên về một thiếu nữ sinh đẹp, là nữ tiếp viên hàng không trong một chuyến bay, cô đã được Đức Cha Paul Seitz ( Kim ) khen:” Con được Chúa ban tặng cho một sắc đẹp tuyệt vời bởi Chúa đã lấy những cái đẹp của những người cùi để làm cho con nên đẹp “. Cô gái đẹp ấy sau này đã  đến trại cùi Di Linh phục vụ một thời gian.

Nhà Tình Thương Trọng Đức đã đan kết nên những con người xả thân phục vụ, ngoài vợ chồng ông bà Thu, anh Hổ, chị Hằng, chúng ta phải kể đến một số anh chị em trong nhóm thiện nguyện giáo xứ Thanh Bình do ông Minh phụ trách, đã góp tay cùng ông bà Thu, chị Hằng, anh Hổ phục vụ những con người bị bệnh tâm thần. Ngoài ra còn phải nói đến công lớn lao của Cha Gioan Minh và Cha Sở Thanh Bình cùng với biết bao tấm lòng vàng, biết bao nhiêu lời cầu nguyện của nhiều người ở trong giáo xứ Thanh Bình và nhiều giáo xứ khác.

MỘT VÀI CẢM NGHĨ :

Nhà Tình Thương Trọng Đức đã làm tôi suy nghĩ miên man.Đời là một cuộc hành trình đức tin với rất nhiều chông gai, thử thách. Có biết bao người giầu có, sống dư thừa trên tiền của nhưng họ lại không biết nghĩ tới người khác, lòng họ chai đá trước những người khổ đau bệnh hoạn.Phải chi mỗi người biết nghĩ đến người khổ đau, bệnh hoạn, tật nguyền một chút thì hạnh phúc cho họ biết bao ! Trong một thế giới có không biết bao nhiêu là sự cạm bẫy của sự giầu có, nó đang có nguy cơ đưa con người rơi vào chủ nghĩa hưởng thụ. Chấp nhận sống khó nghèo, yêu thương và phục vụ không phải là chuyện dễ, chuyện một sớm một chiều có thể thực hiện được. Cuộc hành trình của người môn đệ Chúa là một cuộc hành trình đức tin, của tự do, của niềm vui và lòng quảng đại, vì nó kết hợp người môn đệ Chúa với Chúa Kitô. Nó đưa người môn đệ vào một con đường thật bất ngờ, con đường thập giá và nó biến đổi người môn đệ trở nên khiêm tốn và đầy nhiệt thành hy sinh. “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “( Ga 15, 13 ). Hôm nay, tôi đến đây với nhiều người Kinh và Dân tộc để tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã đổ muôn hồng ân xuống cho mảnh đất, cho ngôi nhà Tình Thương Trọng Đức. Tại nơi này, đã có nhiều tâm hồn quảng đại, đã có nhiều người cảm nghiệm được niềm vui và lòng nhiệt thành của những môn đệ Chúa, can đảm bước theo Chúa trên các nẻo đường truyền giáo, sau khi các môn đệ đã nói với Chúa :” Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy “. Tại nơi đây, nếu những người phục vụ luôn giữ được cốt lõi của Tin Mừng là tình yêu thì nhà Tình Thương Trọng Đức sẽ luôn là điểm sáng cho Hội Thánh, cho Giáo phận Đà Lạt và cho Giáo xứ Thanh Bình. Bởi vì yêu thương và phục vụ những người bị bệnh tâm thần không phải là chuyện dễ và không phải bất cứ ai cũng làm được. Đúng phải có ơn Chúa, phải có Thánh Thần ban ơn can đảm và lòng quảng đại, phải làm theo lời Mẹ dặn trong tiệc cưới Cana :” Ngài bảo gì các anh hãy làm theo “.

Phục vụ những người bị bệnh tâm thần không chỉ là một hành động xã hội thuần túy. Ở nhà Tình Thương Trọng Đức, phục vụ trở thành một quà tặng của Thiên Chúa, sự hiện diện của Chúa Giêsu, một cách diễn tả đức tin vào sự sống lại của Chúa.

Tôi ra về mang trong mình những trăn trở, những thao thức: “ Nước Trời thuộc về những tâm hồn nhỏ bé “. Nhà Tình Thương Trọng Đức vẫn là lời mời gọi nhiều tấm lòng vàng, những tâm hồn thiện chí để nó luôn tồn tại trở thành nơi sưởi ấm những con người một cách nào đó không còn thật sự là con người. Một ngôi nhà mới cho những bệnh nhân tâm thần nam đã hoàn thành. Còn lại đó, phải là một căn nhà mới nữa cho những bệnh nhân bị bệnh tâm thần nữ.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi,  DCCT

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỀ KINH THÁNH SẼ MANG TÍNH ĐẠI KẾT VÀ QUỐC TẾ

Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng (THĐ), tổ chức cuộc họp báo ở Vatican ngày 3-10 để thông báo một số chi tiết của sự kiện này mà người ta dễ nhận thấy ngay là có tính đại kết và quốc tế. Ngài lưu ý rằng THĐ về “Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội” khác với mọi THĐ khác vì bắt đầu với một Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ tế tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, trong khi các THĐ trước đây đều ở trong Đền thờ Thánh Phêrô. “Lý do cho điều này có thể là vì lần hội nghị thứ 12 này diễn ra trong Năm Thánh Phaolô”. THĐ sẽ quy tụ 253 Giám mục Công giáo Roma, 13 Giám mục Công giáo nghi lễ Đông phương và nhiều chuyên gia. 253 nghị phụ đại diện cho 113 HĐGM từ khắp trên thế giới sẽ gia nhập với 25 bộ ngành thuộc Giáo triều Roma và Liên minh các Bề trên Cả. Cùng hiện diện có 41 chuyên gia (trong đó có 6 phụ nữ) từ 21 quốc gia và 37 dự thính viên (trong đó có 19 phụ nữ) đến từ 26 nước. Một số rất đông người từ các Giáo hội Kitô giáo khác cũng được mời tham dự. Đức Thánh Cha cũng mời 3 vị khách đặc biệt đến nói chuyện với THĐ, mỗi người sẽ đề cập một viễn cảnh duy nhất. Khách mời đầu tiên là đại giáo sĩ Do Thái Shear Yashov Cohen ở Haifa (đề tài: Dân Do Thái đọc và giải thích Kinh Thánh ra sao?). Hai vị kia là Mục sư A. Miller Milloy, Tổng Thư ký Hội Kinh Thánh Thống Nhất, và Thầy Alois, Tu viện trưởng Cộng đoàn Taizé. Một khía cạnh đại kết đáng lưu ý là những diễn từ do Đức Thánhh Cha và Đức Thượng phụ Đại kết Bartôlômêô I đọc vào ngày 18-10, khi cả hai nhà lãnh đạo chủ trì Giờ Kinh Chiều Chúa Nhật thứ 29 Thường Niên. THĐGM TG [thường kỳ] lần thứ XII nầy diễn ra ở Roma,từ 05.10 (lễ Đức Mẹ Mân Côi] đến ngày 26.10 [sau Chú Nhật Khánh Nhật Truyền Giáo 19.10]. 

2.      ĐÔI NÉT CHUNG VỀ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THÊ GIỚI

(Tóm tắt từ website HĐGM VIỆT-NAM 04.10) 

2.1 Trước hết, chúng ta cần nhớ rằng Thượng Hội đồng Giám mục đã được thiết lập bởi Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, qua Tự sắc có tựa đề là "Apostolica Sollicitudo" (Sự Chăm sóc Tông đồ), ban hành ngày 15-9-1965. Chính Ðức Phaolô VI, trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 22-9-1974, đã định nghĩa Thượng Hội đồng Giám mục như sau:

"Ðây là một cơ chế Giáo Hội mà chúng tôi thiết lập lên sau Công đồng Vatican II, ngõ hầu củng cố sự hiệp nhất và cộng tác giữa các giám mục trên khắp thế giới với Toà Thánh. Cơ chế Thượng Hội đồng Giám mục thực hiện mục tiêu trên, nhờ qua bởi cuộc nghiên cứu chung liên quan đến những hoàn cảnh của Giáo Hội và qua bởi giải đáp chung cho những vấn đề có liên quan đến Sứ mạng của Giáo Hội. Thượng Hội đồng Giám mục không phải là một Công đồng, cũng không phải là một Quốc hội, nhưng như là một kiểu mẫu đặc biệt của Công nghị".

2.2 Bộ Giáo luật 1983 dành nói về Thượng Hội đồng Giám mục trong các điều từ 342-348.

Ðiều 342: Thượng Hội nghị Giám mục là một đại hội gồm các giám mục được tuyển chọn từ nhiều miền khác nhau trên thế giới, tụ họp lại vào những thời kỳ được ấn định, để cổ vũ sự hiệp nhất chặt chẽ giữa Ðức Thánh Cha với các Giám mục, và để giúp ý kiến cho Ðức Thánh Cha trong việc bảo vệ và tăng tiến Ðức tin và phong hoá, và trong việc duy trì và củng cố kỷ luật Giáo Hội; ngoài ra, còn để nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hoạt động của Giáo Hội trong thế giới.

Ðiều 343: Thượng Hội nghị Giám mục có thẩm quyền bàn thảo tất cả các vấn đề đã đề ra và bày tỏ ý kiến của mình, nhưng không có thẩm quyền để biểu quyết hay ban hành nghị quyết về các vấn đề đó; trừ những trường hợp nhất định, khi Ðức Thánh Cha cho Thượng Hội nghị được quyền biểu quyết; lúc ấy, Ðức Thánh Cha có quyền phê chuẩn các quyết định của Thượng Hội nghị.

Ðiều 344: Thượng Hội nghị Giám mục phục tùng trực tiếp quyền bính của Ðức Thánh Cha. Thẩm quyền của Người là:

1o triệu tập Thượng Hội nghị mỗi khi thấy thuận lợi, và chỉ định nơi hội họp;

2o phê chuẩn việc bầu cử những thành viên nào mà theo quy luật riêng cần được bầu, và chỉ định cùng bổ nhiệm các thành viên khác;

3o ấn định đề tài của những vấn đề sẽ thảo luận, vào thời gian xứng hợp, trước khi Thượng Hội nghị khai họp, theo quy luật riêng;

4o hoạch định chương trình nghị sự;

5o đích thân hay nhờ những người khác chủ toạ Thượng Hội nghị;

6o bế mạc, di chuyển, đình chỉ và giải tán Thượng Hội nghị.

Ðiều 345: Thượng Hội nghị Giám mục có thể nhóm họp hoặc là trong Ðại hội chung, thông thường hay bất thường, trong đó bàn thảo về những công việc liên hệ trực tiếp tới lợi ích của toàn thể Giáo Hội; hoặc là trong đại hội đặc biệt, trong đó bàn thảo những công việc liên hệ trực tiếp tới một hoặc nhiều miền nhất định.

Ðiều 346: §1 Khi nhóm họp Ðại hội Chung thông thường, Thượng Hội nghị Giám mục gồm đại đa số phần tử là các giám mục đã được các Hội đồng Giám mục chọn cho từng Ðại hội, chiếu theo thể thức được ấn định do luật riêng của Thượng Hội nghị; một số khác được chính luật chỉ định; một số nữa được Ðức Thánh Cha trực tiếp bổ nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử khác thuộc Dòng tu Giáo sĩ được lựa chọn theo quy tắc của luật riêng.

§2 Khi nhóm họp Ðại hội Chung ngoại thường để bàn về những vấn đề đòi hỏi một giải pháp mau lẹ, Thượng Hội nghị Giám mục gồm đa số các phần tử là các giám mục được chỉ định do luật riêng của Thượng Hộinghị chiếu theo chức vụ đương đảm nhiệm; một số khác do Ðức Thánh Cha trực tiếp bổ nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử thuộc Dòng tu Giáo sĩ được lựa chọn theo đúng như quy tắc của luật riêng.

§3 Khi nhóm họp Ðại hội đặc biệt, Thượng Hội nghị gồm các phần tử được lựa chọn từ những miền mà vì đó mà Thượng Hội nghị được triệu tập, chiếu theo quy tắc của luật riêng điều hành Thượng Hội nghị.

Ðiều 347: §1 Khi Ðại hội của Thượng Hội nghị Giám mục đã được Ðức Thánh Cha bế mạc, thì chức vụ đã giao phó cho các giám mục và cho các phần tử khác trong Thượng Hội nghị cũng chấm dứt.

§2 Nếu Toà Thánh trống toà sau khi đã triệu tập Thượng Hội nghị hoặc đang khi họp, thì chiếu luật, Ðại hội của Thượng Hội nghị bị đình hoãn; cũng vậy, các chức vụ đã giao phó cho các phần tử trong Thượng Hội nghị cũng bị đình chỉ, cho đến khi tân Giáo hoàng quyết định hoặc giải tán hoặc tiếp tục Ðại hội.

Ðiều 348: §1 Thượng Hội nghị Giám mục có một văn phòng thường trực dưới sự điều khiển của một Tổng Thư ký được Ðức Thánh Cha bổ nhiệm; để giúp đỡ Tổng Thư ký, có một Hội đồng Văn phòng gồm bởi các giám mục, trong số đó, một vài vị được chính Thượng Hội nghị lựa chọn theo quy luật riêng, một số khác được Ðức Thánh Cha bổ nhiệm; chức vụ của tất cả những người này chấm dứt khi bắt đầu nhóm Ðại hội mới.

                     §2 Ngoài ra, vào mỗi Ðại hội của Thượng Hội nghị Giám mục sẽ bổ nhiệm một hoặc nhiều thư ký đặc biệt, do Ðức Thánh Cha chỉ định; những người này chỉ ở lại chức vụ đã giao phó cho tới khi Ðại hội của Thượng Hội nghị kết thúc.

=> Sinh hoạt và thành phần tham dự Thượng Hội Đồng được Đức Phaolô VI ấn định trong Tự sắc thiết lập ngày 15-9-1965, theo đó có đại diện các giám mục theo Hội đồng Giám mục (cho khoá họp thông thường thì 25 giám mục 1 đại diện, 50 giám mục 2 đại diện, 100 giám mục 3 đại diện, trên 100 giám mục 4 đại diện; khoá họp ngoại thường thì Chủ tịch Hội đồng Giám mục; khoá họp đặc biệt thì đại diện theo một tỷ lệ khác hơn khoá họp thông thường) cùng với các vị đứng đầu các Cơ quan của Toà Thánh là thành phần chính thức được gọi với danh nghĩa là “nghị phụ” (Sodalibus). Ngoài ra còn có các dự thính viên (Auditores) và các đại diện (Delegati fraterni) của các Giáo hội và cộng đoàn Giáo hội anh em. Trong khoá họp còn thêm các chuyên viên (Adiutores Secretarii Specialis) phụ giúp Văn phòng Tổng Thư ký.

Tại Giáo triều có một Văn phòng Thường trực được gọi là Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, đứng đầu là một Tổng Giám mục (hiện nay là Đức cha Nikola Eterovic) có nhiệm vụ điều hành công việc thường xuyên.

=> Thường thì diễn tiến mỗi khoá họp Thượng Hội đồng Giám mục bắt đầu với việc Đức Thánh Cha chọn chủ đề, ấn định ngày họp. Rồi Văn phòng Tổng Thư ký chuẩn bị và gửi đến các Hội đồng Giám mục và các cơ quan bản văn Lineamenta (Đề cương, trong đó có ghi những câu hỏi để các Hội đồng Giám mục góp ý), tiếp đến là bản văn Instrumentum laboris (Tài liệu làm việc). Từ đây, các thành viên chuẩn bị tham luận cho khoá họp. Đức Thánh Cha cũng bổ nhiệm vị tường trình viên và chủ toạ đoàn. Bước vào khoá họp có 3 giai đoạn: 1. các nghị phụ tham dự trình bày tham luận; 2. chia tổ thảo luận (circuli minores); 3. soạn sứ điệp gửi dân Chúa và biểu quyết các đề nghị (Propositiones) đệ trình Đức Thánh Cha. Thời gian cho khoá họp thay đổi tuỳ theo hình thức của khoá họp (thông thường trong 3-4 tuần, ngoại thường trong 2 tuần, đặc biệt khoảng từ 2-3 tuần). Khoá họp chấm dứt, công việc được tiếp tục với hoạt động của Văn phòng Tổng Thư ký và các thành viên được đề cử (15 vị) giúp đỡ để Đức Thánh Cha ban hành Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng. 

2.3 Tổng kết tóm tắt về các khoá họp Thượng Hội đồng từ đầu cho đến nay:

2.3.1 CÁC KHÓA HỌP THƯỜNG KỲ :  

Stt

THỜI GIAN

CHỦ ĐỀ

Ghi chú

01.

29.9 – 29.10.1967

Gìn giữ và cũng cố Ðức tin Công giáo, sự toàn vẹn, sức mạnh, sự khai triển, sự mạch lạc trên bình diện giáo lý và phát triển lịch sử”.

197 nghị phụ

02.

30/9–06/11/1971

Chức Linh mục Thừa tác và Sự Công bằng trên Thế giới

210 nghị phụ

03.

27/9–26/10/1974

Rao giảng Phúc Âm trong Thế giới Hiện đại

209 nghị phụ

 

04.

30/9–29/10/1977

Việc Giảng dạy Giáo lý trong Thời đại Chúng taà Tông huấn Catechesi Tradendae (Về Giáo lý trong Thời đại của Chúng ta

204 nghị phụ

05.

26/9–25/10/1980

Gia đình Kitô Tôngà”.  huấn Familiaris Consortio (Về Vai trò của Gia đình Kitô giáo trong Thế giới Tân tiến/Hiện đại)

216 nghị phụ

06.

29/9–29/10/1983

Ðền tội và Hoà giải trong Sứ mạng của Giáo Hội Tôngà”.  huấn Reconciliatio et Paenitentia (Về Việc Hoà giải và Đền tội)

221 nghị phụ

07.

01–30/10/1987

Ơn gọi và Sứ mạng của Giáo dân trong Giáo Hội và trong Thế giới Tôngà”.  huấn Christifideles Laici (Về Người Giáo dân trong Giáo Hội và Thế giới)

232 nghị phụ

08.

30/9–28/10/1990

Việc Huấn luyện Linh mục trong Những Hoàn cảnh Ngày nay Tôngà”.  huấn Pastores Dabo Vobis(Về Việc Đào tạo các Linh mục)

238 nghị phụ

09.

02–29/10/1994

Ðời Tận hiến và Vai trò của nó trong Giáo Hội và trong Thế giới Tôngà”.  huấn Vita Consecrata (Về Đời sống Thánh hiến)

245 nghị phụ

10.

30/9–27/10/2001,

Giám mục: nguời tôi tớ của Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô để mang lại hy vọng cho thế giới Tôngà”.  huấn Pastores Gregis (Về Giám mục là tôi tớ về Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô cho Niềm Hy vọng của Thế giới)

247 nghị phụ

11.

02-23/10/2005

Bí tích Thánh Thể, Nguồn mạch và Chóp đỉnh Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội”  Tông huấnà Sacramentum Caritatis (Về Bí tích Thánh Thể, Nguồn mạch và Chóp đỉnh của Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội)

252 nghị phụ

12.

5-26/10/2008

Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội

253 nghị phụ

 

2.3.2        CÁC KHÓA HỌP BÂT THƯỜNG 

Stt

THƠI GIAN

CHỦ ĐỀ

Ghi chú

01.

11.10 – 28.10.1969

Sự Cộng tác giữa Toà Thánh và các Hội đồng Giám mục

146 nghị phụ

Khoá họp đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục Hà Lan, từ ngày 14–31/01/1980,
về chủ đề : “Hoàn cảnh Mục vụ tại Hà Lan”. (19 nghị phụ)

02.

Khoá họp đặc biệt Thượng Hội đồng Giám mục Âu Châu, từ 28/11–14/12/1991, về chủ đề tài: “Ngõ hầu chúng ta có thể là những chứng nhân của Chúa Kitô, Đấng đã giải phóng chúng ta”. (137 nghị phụ)

03.

24/11–08/12/1985

Kỷ niệm 20 năm Kết thúc Công đồng Vatican II

165 nghị phụ

04.

10/4–08/5/1994

Giáo Hội tại Phi Châu và sứ mạng rao giảng Phúc Âm hướng đến năm 2000: Các con sẽ là những chứng nhân của Ta”  Tông huấnà(Cv 1,8).  Ecclesia in Africa (Về Giáo Hội tại Phi Châu)

242 nghị phụ

05.

Khoá họp đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục về LIBAN, từ ngày 26/11– 4/12/1995, về chủ đề: “Chúa Kitô là Niềm Hy vọng của Chúng ta: Ðược canh tân bởi Chúa Thánh Thần, trong tình liên đới, chúng ta làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa Tôngà”. huấn A New Hope for Lebanon (Về Một Niềm Hy vọng Mới cho Đất nước Libăng): nước Libăng   (69 nghị phụ)

06.

Khoá họp đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục Mỹ Châu, từ ngày 16/11–12/12/1997, về chủ đề tài: “Gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô hằng sống: con đường hoán cải, hiệp thông và liên đới tại Mỹ Châu”. Tông huấn Ecclesia in America (Về Giáo Hội tại Mỹ Châu La Tinh) (233 nghị phụ)

07.

Khoá họp đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu, từ ngày 19/4–14/5/1998, về chủ đề: “Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc và Sứ mạng Yêu thương và Phục vụ của Ngài tại Á Châu: Ðể họ được sống và sống dồi dào” (Ga Tông huấnà 10,10).  Ecclesia in Asia (Về Giáo Hội tại Á Châu)  [191 nghị phụ]

08.

Khoá họp đặc biệt Thượng Hội đồng Giám nục Châu Ðại Dương, sẽ được tổ chức từ ngày 22/11–12/12/1998, về đề tài: “Chúa Giêsu Kitô và các dân tộc của Châu Ðại Dương: bước đi trên con đường của Chúa, rao giảng sự thật của Chúa, và sống sự sống của Chúa Tôngà”.  huấn Ecclesia in Oceania (Về Giáo Hội tại Châu Đại Dương) [ 117 nghị phụ]

09.

Khoá họp đặc biệt Thượng Hội đồng Giám mục Âu Châu lần 2, từ ngày 01–23/10/ 1999, về chủ đề: “Chúa Giêsu Kitô, Sống động trong Giáo Hội, Nguồn mạch của Hy vọng cho Âu Châu”.  [165 nghị phụ]

 

2.3.3       PHÁI ĐOÀN VIỆT NAM THAM DỰ THĐGM THẾ GIỚI:

Đoàn Việt Nam có 2 đại diện là Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh Hoá, Phó Chủ tịch HĐGMVN, và Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Phó Nha Trang, Phó Tổng Thư ký HĐGM/VN. Cũng có cha Vincentê Nguyễn Văn Bản, Giáo phận Quy Nhơn, Giáo sư Kinh Thánh được chọn làm chuyên viên tham dự.

Giuse Nguyễn Thế Bài

Mục lục

 

 

Từ Vatican II, nghĩ về quà tặng và Gánh nặng

 

 Không ai muốn trở thành gánh nặng, vì gánh nặng luôn đồng nghĩa với vất vả, mệt mỏi và cả những thao thức băn khoăn. Hai người dù yêu nhau tha thiết, ngay cả khi đã là vợ chồng, thì lúc này hoặc nơi nọ họ vẫn có thể trở thánh gánh nặng cho nhau. Lẽ thường tình là vậy, vì đó là quy luật đời sống. Ai cũng muốn nhận được quà tặng, nhưng đôi khi, lại tự biến thành gánh nặng của chính mình rồi chất lên vai kẻ khác mà không tự biết. Trong một gia đình, con cái thường là những quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho các bậc cha mẹ, và cha mẹ luôn là các ân phúc quý báu dành cho những người con. Tuy nhiên, vẫn không hiếm những trường hợp các thành viên trong nhà đã trở thành gánh nặng của nhau, và vì vẫn là những con người, nên gia đình giáo hội của Chúa cũng không có biệt lệ. Những điều này, các đấng bậc trách nhiệm của Giáo hội đã nhiều lần chỉ rõ .

 

 Những con cừu Panurge:

 

Công đồng Vatican II đã mang lại nhiều sức sống mới cho Giáo hội, rất tích cực và sinh động, cách riêng về phía người giáo dân.  Trong giáo xứ, người giáo dân cộng tác với cha xứ trong hầu hết mọi sinh hoạt. Từ tổ chức điều hành đến huấn luyện giáo dục và phụng vụ, họ đều có mặt trong Hội đồng giáo xứ, Ban hành giáo, Giáo lý viên, Ca đoàn……Trong các hội đoàn như Legio, giới Hiền mẫu, giới Gia trưởng ….người giáo dân giúp đỡ nhau, nâng cao trình độ cho nhau, cùng nhau làm nhiều việc mục vụ trong xứ  : thăm viếng an ủi người cô đơn đau ốm, gặp gỡ người ngoại, nâng đỡ kẻ khô khan rối rắm, giúp đỡ người nhập cư …

 

Một số giáo dân khác còn tham gia những công việc, mà trước đây, chỉ có hàng giáo sĩ mới có khả năng như : chú giải Thánh kinh, dạy Triết và Thần học, nghiên cứu tôn giáo, cộng tác vào việc đào tạo chủng sinh, tu sĩ ….

 

Sau Công đồng chung VAT II, ai cũng thấy đã có nhiều nỗ lực và những đổi thay rất đáng kể trong gia đình Giáo hội, tuy nhiên, so với những đòi hỏi và kêu gọi của Công đồng VAT II thì vẫn còn đó một khoảng cách không nhỏ, khoảng cách ấy đã biến người giáo dân và giáo sĩ thành những gánh nặng. Gánh nặng của chính mình và gánh nặng cho người khác.

 

Thực thế, ngay ở những trang đầu của bộ Thánh Kinh, lời của Thánh Giêrênimô đã được trích dẫn như  một điều cần phải được nhấn mạnh : “Không biết Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu ”. Dù vậy, thực tế đã chỉ ra rằng, người tín hữu Công giáo là người ít đọc Thánh kinh nhất so với các hệ phái cùng tôn thờ Chúa Giêsu. Ít đọc đến mức, thậm chí có nhiều giáo dân đã không biết cách tìm đúng địa chỉ các câu hoặc các chương của bộ Kinh thánh.

 

Mặt khác nữa, phần lớn các giáo dân cảm thấy không có nhu cầu cần phải đọc Thánh kinh, đa số đều tự hài lòng và lấy làm an tâm thoả mãn vì đã có những câu lời Chúa, đang khi các câu lời Chúa chỉ là những mảnh vụn và thật rời rạc so với toàn bộ Kinh thánh. Một hiểu biết vụn vặt và rời rạc về Đấng mà mình tôn thờ như thế, quả thật, hiểu biết ấy không có gì đáng để tự hào. Chính vì thế, nhận thức và đời sống tín lý của số đông này rất hời hợt. Các kiến thức về đạo chủ yếu được nuôi dưỡng bằng các bài giảng của linh mục ngày Chủ nhật, mà mức tiếp thu thường vốn rất hạn chế, chưa kể nhiều trường hợp vị linh mục bận rộn đến mức, không đủ thời gian để soạn bài giảng cho súc tích và gần gũi với thực tế cuộc sống.

 

Vì đời sống đức tin hoàn toàn phụ thuộc  vào linh mục như thế, nên người giáo dân mất dần khả năng suy tư độc lập và từ đó, ý thức mỗi ngày một bị bào mòn để biến thành các con cừu Panurge, những gánh nặng của chính mình. Họ không còn là những cộng tác viên như Chúa muốn và Công đồng mời gọi , nhưng đã tự biến mình thành những gia nhân chỉ có nhiệm vụ : đóng tiền, cầu nguyện và vâng lời tối mặt, đang khi trong cộng đồng Dân Chúa, mọi giáo dân đều có chung chiều kích là tư tế, vương giả và ngôn sứ của một dân riêng được tuyển chọn, và nguời giáo dân cũng là các linh mục phổ quát như Công đồng đã xác nhận.

 

Tuy nhiên, tư tế, ngôn sứ và vương đế hoặc linh mục phổ quát sẽ chỉ là các thuật ngữ  khô cứng trên mặt giấy, chẳng liên quan gì đến đời sống đức tin của tôi, nếu  tôi thiếu nhu cầu và cảm thấy rằng không cần học biết, vì tôi thấy mình đã quá đủ.

 

Không biết Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu. Những lời ấy của Thánh Giêrônimô thời nào cũng đúng, vì thế, xác quyết của Ngài phải là thao thức của tất cả những ai muốn được kết hợp thực sự với Đấng cứu độ của mình.

 

Các quan linh mục

 

Mỗi Linh mục đều là một quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho phần rỗi mọi người. Lý tưởng dâng hiến và phục vụ của đời tu, tự nó đã đủ cao đẹp để ai cũng phải ngưỡng mộ và biết ơn. Tuy nhiên, người linh mục dù được trao 7 chức thánh, nhưng các ngài vẫn bị hạn chế về nhiều mặt và vẫn có đủ các tham sân si của phận người, vì thế, khi lý tưởng đẹp đẽ ban đầu nhạt dần theo màu áo thời gian, người linh mục dễ biến thành các công chức cao cấp, những ông quan linh mục, rồi trở thành gánh nặng của chính mình hồi nào không hay.

 

Có thứ gánh nặng dễ biết, có nhiều trường hợp tự biến thành gánh nặng rất khó nhận ra.

 

Sẽ biến thành gánh nặng, khi nghĩ rằng, đậu linh mục là đã tới được bến rồi, để từ đó, xem nhẹ hoặc bỏ quên nhu cầu đào tạo, tự đào tạo, giáo dục và tự giáo dục. Trong các tài liệu thường huấn và tĩnh tâm hàng năm của các linh mục, Đức Giám mục Bùi Tuần luôn đề cao và nhắc nhở nhu cầu tự giáo dục luôn là đòi hỏi hàng đầu, và phải được xếp vào ưu tiên trước hết .

 

Sẽ là gánh nặng, khi xử dụng quyền bính để coi dân riêng của Chúa là dân đen của mình. Ở nhiều nơi, cha xứ chỉ cần người giáo dân biết ngoan ngoãn vâng lời, và càng biết ít về tín lý và thần học thì càng dễ chăn dắt . Có vị còn nuôi dưỡng quyền bính và sự sợ hãi đối với mình, bằng cách rao giảng một Thiên Chúa đáng sợ và sẵn sàng trừng phạt, thay vì một Thiên Chúa tình thương và người Cha vô cùng tốt lành nhân hậu. Vì thế, chuyện có nhiều gia nhân của cha xứ, thay vì là những cộng tác viên Nước Trời để cùng nhau xây dựng trời mới đất mới là điều phổ biến và dễ hiểu.

 

Sẽ là gánh nặng, khi xử dụng quyền bính để đặt nặng chuyện xây dựng các cơ sở vật chất, mà coi nhẹ chuyện xây dựng đền thờ sống động là những con người. Không ít linh mục đã muốn để lại dấu ấn cá nhân mình, khi xây dựng các nhà thờ thật hoành tráng để ganh đua với các xứ  khác, đang khi cũng nhà thờ ấy và những cung thánh ấy còn đang là niềm mơ ước của rất và rất nhiều nơi khác nghèo hơn. Đã có nhiều trường hợp những người giúp đỡ từ nước ngoài, khi về thăm, họ đã rất ngạc nhiên về những hoành tráng và sự sang trọng quá mức, của các nhà thờ và nơi thờ tự ở đây đã làm họ hết sức ngỡ ngàng, vì chính họ ở bên ấy cũng không có được như vậy .

 

Sẽ là gánh nặng, khi người giáo dân nghèo luôn trở thành những kẻ vô danh, dù thường gặp mặt, nhưng người chủ chiên vẫn chẳng cần biết đến tên của họ, song Ngài lại quan tâm đặc biệt đến những kẻ giầu có với những khoản dâng cúng to lớn và quà cáp hậu hĩ giá trị .

 

Đặc biệt, khi không còn giữ được đức khiết tịnh trong sạch của 3 lời khấn của đời tu trì, Ngài sẽ trở thành gánh nặng đau khổ không thể nói hết bằng lời. Vì lời nào cũng vẫn là thừa, và nói lời nào cũng là sẽ thiếu, nên tốt nhất là im lặng không nói, kẻo lại bị vạ miệng hoặc kết án là xét đoán thì sẽ bị đoán xét .

Trong một lần gặp mặt và chia sẻ với giáo dân, Đức Hồng Y Tổng Giám mục của chúng ta đã tâm sự đại ý rằng : “Một trong các đau khổ và nhức đầu nhất của tôi là phải làm việc về những vấn đề lôi thôi có liên quan đến linh mục.”. Được nghe những tâm sự ấy của người cha chung, chúng ta hiểu được rằng, gánh nặng mà Ngài đã phải mang chẳng hề là nhẹ nhàng đơn giản .

                                   

Dù không có dịp đi nơi này nơi khác, nhưng ai cũng có thể thấy rõ những thực trạng trên của cộng đoàn Dân Chúa. Dĩ nhiên các thực trạng kia không phải là tất cả, vì vẫn còn đó, rất nhiều những vị chủ chăn luôn tận tuỵ và hết lòng với đoàn chiên của mình, các vị ấy vẫn đang ngày đêm âm thầm phục vụ và hiến dâng trong thinh lặng chẳng mong được ai hay biết.

 

Cũng đang có rất nhiều các giáo dân, họ ý thức rất rõ chiều kích cộng tác viên Nước trời của họ, họ đang tích cực hoạt động trong những điểm nóng mà nhiều người e ngại, những vết thưong và ung nhọt của xã hội như HIV & Ma tuý, giúp ngăn ngừa phá thai, mãi dâm. Gần đây việc thu góp và chôn cất các hài nhi bị bỏ rơi rồi quy tập thành những nghĩa trang ở nhiều vùng miền trên cả nước, những việc ấy đã đánh động lương tâm xã hội rất lớn … Những đóng góp của họ, có thể là rất nhỏ bé và thật khiêm tốn so với nhiều công trình vĩ đại lẫy lừng khác. Nhưng thật ra, chẳng có việc nào là nhỏ bé hoặc là vĩ đại trước Đấng Sáng tạo, vì Ngài luôn nhìn vào cõi lòng mỗi người để lượng giá, hai đồng xu nhỏ bé của bà goá không lớn hơn hết mọi đồng bạc  dâng cúng đó sao ?

 

Những việc ấy đích thực là những món quà tặng vô cùng quý gia. Những quà tặng này của cả chủ chiên lẫn con chiên vẫn đang hiện diện đó đây, nhiều lắm.

 

Cần phải nói về gánh nặng để tôn vinh quà tặng, vì nhờ thế gánh nặng sẽ bớt đi ít nhiều. Một que diêm của ánh sáng cũng lui đi phần nào bóng tối, thay vì cứ ngồi đó mà thở than nguyền rủa hoặc kết án.

 

Lạy Chúa !

 

Con bất toàn, giáo xứ của con bất toàn, Giáo hội và cả thế giới mà con đang sống cũng đẩy rãy bất toàn, vì chỉ duy nhất có Chúa là Đấng toàn hảo.

 

Xin nhắc nhở con luôn ý thức sâu sắc về điều ấy, để từ đó, con sẽ trông cậy thiết tha vào Đấng toàn thiện, toàn năng là Thiên Chúa và cũng là Cha của con. Nhờ thế, con sẽ tỉnh thức hơn để nhìn rõ vị trí và chỗ đứng của con mà Chúa đã đặt để con vào, nhờ vậy, con sẽ hoàn thành bổn phận mà Chúa đã trao cho con.

 

Từ xa xưa, con vốn là quà tặng, nhưng khi này khi khác nhiều lần, con đã trở thành gánh nặng cho không ít người.

 

Xin cho con một tia sáng, nhỏ thôi, từ trời cao rọi xuống, tia sáng ấy sẽ giúp con kịp thời nhận ra và đủ sức mạnh để điều chỉnh mình, vì khi con thay đổi cuộc đời xung quanh con  cũng sẽ đổi thay.

Amen.

Xuân Thái

Mục lục

 

 

Kính Mừng Maria

 

Nếu có một kinh nào đó đặc trưng được gọi là Kinh Công Giáo, thì chắc chắn đó là Kinh Kính Mừng. Ta đọc Kinh này không biết bao nhiêu lần, dưới nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng nhất là trong lúc đọc Kinh Truyền Tin và lần chuỗi Mân Côi, cho đến nay có lẽ đã đến cả hàng ngàn lần… Tuy nhiên, nhiều lúc ta chỉ đọc nó theo thói quen, ít khi chịu tìm hiểu ý nghĩa đầy đủ của nó. Thực ra, không một chữ nào trong Lời Kinh này dư thừa, vô nghĩa cả.


Kính mừng Maria

 

Đây không hẳn là lời chào cho có lệ. Lúc Truyền Tin, thiên thần không chào Đức Maria bằng lời chào vô nghĩa hàng ngày, như kiểu người Úc, người Mỹ gặp nhau thường nói “hello”. Vì chữ “Ave” (Ave Maria) thực ra có nghĩa “hãy vui lên” (be happy). Không lạ gì cha ông ngưòi Việt chúng ta dịch là “Kính Mừng”. Nó chứa cả một âm sắc thiên sai của niềm vui mà Thiên Chúa dành sẵn cho con người khi trở thành Một Con Người như họ. Qua cái niềm vui của Đức Maria, ta còn thấy cả một hừng đông ơn cứu rỗi nhân loại đang ló dạng.

Tước hiệu “Maria” là của Đức Maria trước khi Ngài được thiên thần xưng như thế. Tước hiệu này có nhiều nghĩa, nhưng một trong các nghĩa ấy chính là “Bà”, “Mệnh Phụ”, “Lệnh Bà “(Lady) tương tự như chữ “Chúa” (Lord) áp dụng cho Chúa Kitô. Nói theo tiếng Latinh, thì là “Domina” (Đức Bà) trong khi Chúa Giêsu là “Dominus” (Đức Chúa). Tước hiệu này chính là căn bản để ta xưng tụng Đức Maria là Nữ Vương. Người sẽ là Mẹ của Chúa Tể Vũ Trụ, nên hiển nhiên sẽ là Nữ Vương của nhân loại.


Đầy ơn phúc


Bản Kinh Kính Mừng của ta dựa theo bản dịch Phổ Thông. Như ta đã thấy, bản dịch này do Thánh Giêrôm thực hiện vào đầu thế kỷ thứ 5 theo lệnh của Thánh Giáo Hoàng Đamasô I. Đây là bản dịch duy nhất được một công đồng chung của Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận. Không những chỉ nhìn nhận mà thôi, mà còn được Công Đồng tuyên bố là chân chính, nghĩa là nó chứa đựng một cách chính xác bản chất sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ta biết nhiều bản dịch dịch chữ tương đương của Hy Lạp trong bản văn Tân Ước là “được sủng ái cao trọng” (highly favoured). Dịch như thế là dịch theo lối tầm nguyên Hy Lạp, chứ không cho thấy sự viên mãn của nội dung tín lý mà Giáo Hội thấy cần phải có trong thuật ngữ gratia plena (đầy ơn phúc).


Nhưng ta tự hỏi Đức Maria “đầy ơn phúc” như thế nào? Người đầy ơn phúc, trước nhất vì người được tượng thai trong bụng mẹ mà không vướng tội nguyên tổ. Người đầy ơn phúc là người ngay từ giây phút đầu tiên được tượng thai tron glòng mẹ đã không mắc tội nguyên tổ. Đức Maria là người ấy. Đàng khác, suốt cuộc đời Người, Đức Maria nhận được ơn phúc dư thừa đến độ không ai khác, ngoại trừ Chúa Kitô, được như thế. Ngoài ra, không phải Người chỉ được ơn vô nhiễm lúc đầu đời mà thôi, mà suốt đời không bao giờ Người phạm tội. Dù là tội nhẹ, Người cũng không bao giờ vi phạm trong suốt đời mình. Đàng khác, đầy ơn phúc còn có nghĩa là các thèm khát của Người luôn được Người kiểm soát. Khác với mọi người chúng ta, Đức Maria không có các dục vọng xấu xa. Ngài có ước muốn, ước muốn mạnh mẽ là đàng khác, nhưng các ước muốn này luôn tùng phục lý trí do ảnh hưởng của việc Người được đầy ơn phúc. Sau cùng, quan trọng hơn cả, Người được ơn duy nhất làm Mẹ Tác Giả mọi ơn phúc. Quả là đầy ơn phúc!


Chúa ở cùng Bà


Đây lời của chính Tổng lãnh thiên thần Gabriel. Ta tự hỏi: Chúa ở cùng Đức Maria ra sao? Người ở cùng Đức Mẹ qua ơn bằng hữu của Người. Ta hãy để ý điều này: Người không ở gần Đức Mẹ hay ở trong Đức Mẹ mà thôi, mà ở cùng Đức Mẹ. Người cũng ở với Đức Mẹ qua đức tin của Đức Mẹ, tin tất cả những điều Người đã từng mạc khải về việc Người sẽ đến để cứu chuộc nhân loại. Trong số các giáo phụ, Thánh Augustinô cho ta hay: Đức Maria chịu thai Thiên Chúa bằng tinh thần đức tin trước khi chịu thai Người bằng máu thịt trong thân xác mình. Ta có thể nói, chính đức tin sâu sắc của Đức Mẹ đã kéo được ơn trở thành Mẹ Chúa Kitô.


Chúa ở cùng Đức Maria, và tiếp tục ở cùng Đức Mẹ qua sự Quan Phòng kỳ diệu của Người. Ta có thể chắc chắn: Thiên Chúa không bao giờ ban bất cứ ơn nào đơn độc cả. Người không bao giờ ban ơn rồi bỏ đấy mà đi. Người ở cùng Đức Mẹ vì Người bảo bọc Đức Mẹ bằng sự chăm sóc của Người và sắp xếp mọi sự trong đời Đức Mẹ để hoàn tất mục tiêu quan phòng trong cuộc đời ấy. Nhưng ta cũng cần thêm ngay rằng: Chúa ở cùng Đức Mẹ vì Đức Mẹ ở cùng Chúa. Và việc ấy đã có từ trước việc Nhập Thể. Chữ “cùng” ám chỉ một nối kết hai chiều (conjunction). Bạn không thực sự ở cùng ai đó nếu người ấy không ở cùng bạn cách tương ứng.


Đức Mẹ luôn luôn nghĩ tới Thiên Chúa. Ngài cũng ở cùng Chúa trong ý chí. Đức Mẹ luôn làm điều Chúa muốn. Ngài ở cùng Chúa trong tâm hồn. Các soạn giả Phúc Âm có ghi lại lời nói của Đức Mẹ, nhưng ta không thấy Ngài nói nhiều. Tuy thế, mỗi lần các vị ghi lại các cuộc đối thoại ít ỏi giữa Đức Mẹ và Con mình, ta đều thấy Ngài dùng những lời lẽ đầy dịu dàng âu yếm. Nói tóm lại, Đức Mẹ nghĩ tới Chúa luôn, thực hành ý Người, dành cho Người những tình cảm âu yếm dịu dàng mỗi lần có dịp nói truyện với Người.


Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ


Giờ đây ta hãy xem người chị em họ Êlisabét chào mừng Đức Mẹ ra sao lúc Ngài đến thăm bà. Bà dùng lời tuyệt diệu sau đây: "chị có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Lời chào ấy có nghĩa gì? Trước nhất, lời ấy có nghĩa: trong tất cả mọi người nữ, Đức Maria là người duy nhất làm mẹ mà vẫn còn đồng trinh. Ngài độc nhất vô nhị vì Ngài là Mẹ Đấng Được Xức Dầu. Đức Maria là độc nhất vô nhị trong hàng phụ nữ vì con trẻ Ngài mang thai chính là Đấng tạo nên Ngài. Khi hạ sinh Chúa Kitô, Đức Mẹ có thể nói với Người hay nói về Người rằng: “Này là mình tôi” bởi vì Người đã lấy thịt xương nhân bản từ chính Đức Mẹ. Bởi thế, ta nghe Giáo Hội dạy và tin rằng: caro Jesu, caro Mariae (Thịt máu Chúa Giêsu là thịt máu Đức Maria). Khi quyết định làm người, Thiên Chúa đã chọn lấy xác thịt mình từ một người đàn bà. Chắc chắn, người Đàn Bà ấy phải hết sức độc đáo.


Nhưng không phải Êlisabét chỉ nói Đức Mẹ độc đáo trong hàng phụ nữ mà thôi. Đó không phải là điều Thánh Luca muốn nói với chúng ta. Vì “phúc” đây cũng có nghĩa là “hạnh phúc”, “hãy vui lên” (be happy). Thành thử tại đây, ta có hai lời chúc hạnh phúc tiếp sau nhau trong cùng một chương của Phúc Âm Thánh Luca: một của thiên thần, một của người chị em họ. Như thế, Đức Maria quả là người đàn bà hạnh phúc nhất trong mọi người nữ, chứng tỏ cho ta thấy Thiên Chúa muốn ta hạnh phúc ngay ở đời này. Nhưng điều kiện của hạnh phúc này ra sao? Điều kiện này đã được Đức Maria hoàn toàn chứng nghiệm. Đó là việc Ngài khiêm hạ chấp nhận thánh ý Chúa, hoàn toàn vâng phục các dự kiến hết sức huyền nhiệm của Chúa.


Vấn đề lớn nhất trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thực sự không phải là ta không thể dùng trí khôn mà hiểu được Người vô cùng mầu nhiệm; vấn đề là ở chỗ ta cần phải sống một số mầu nhiệm ấy. Đức Maria đã sống trong mầu nhiệm. Điều ấy có nghĩa: Ngài đã sống ý Chúa dù không hoàn toàn hiểu lý do tại sao. Và bạn hẳn còn nhớ hai dịp cảm kích trong đó Đức Mẹ lên tiếng đặt câu hỏi: một lần lúc được truyền tin và lần kia khi tìm lại Con trong Đền Thờ. Hai dịp đó nhắc cho con người mọi thời biết rằng người đàn bà hạnh phúc nhất trong mọi người nữ này từng phải bước đi trong mò mẫm, trong bóng tối, bóng tối của đức tin! Đã đành là Ngài tin, nhưng đức tin là thế đó: tin mà không hoàn toàn hiểu. Cho nên, niềm vui của Đức Maria là kết quả việc Ngài hoàn toàn tuân theo ý Thiên Chúa. Ta cũng cần thêm rằng: đối với con người đang ở lũng sâu nước mắt này, muốn hạnh phúc, không có con đường nào khác ngoài con đường trên. Bí quyết là thực hiện Ý Chúa mà không được đòi hỏi Người giải thích.


Và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ


Không phải Êlisabét chỉ nói Đức Mẹ hạnh phúc, mà cả Con Trẻ trong lòng Đức Mẹ cũng hạnh phúc nữa. Mà Người hạnh phúc thật vì từ lúc còn trong bụng Mẹ, nhân tính của Chúa Kitô đã kết hợp làm một với Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong bản thể rồi. Ngay khi còn trong bụng Mẹ, dưới hình thức xác phàm, Chúa Kitô, trong tư cách con người, đã được chiêm ngắm nhan thánh Ba Ngôi Thiên Chúa. Ai lại không hạnh phúc khi được chiêm ngắm thánh nhan Thiên Chúa? Các nhà huyền bí từng viết rất nhiều về cuộc sống ẩn dật của Chúa Kitô nhưng ta nên nhớ rằng cuộc sống ẩn dật ấy đã khởi đầu ngay trong lòng Mẹ rồi. Hạnh phúc trong chốn ẩn dật ấy khích lệ ta rất nhiều lúc ta thấy khó chấp nhận việc mình không được ai biết đến, không được ai nhìn nhận, bị mọi người lãng quên… Con người nhân bản chúng ta là thế, sợ bị lãng quên, sợ bị làm ngơ xiết bao, muốn được, khao khát được người khác biết đến biết là dường nào!


Nhưng cũng như Mẹ của Người, Chúa Kitô cũng thực hiện Ý Thiên Chúa. Người hạnh phúc vì Người thực hiện Ý ấy. Ở đây, ta đụng tới viên đá nền tảng xây dựng nên cảm nghiệm thánh thiện. Không một ai có trí khôn lành mạnh, bất kể có cố gắng thi hành tốt Ý Thiên Chúa hay không, có thể chối cãi rằng Ý Chúa rất đắt giá, nó đòi hỏi nhiều lòng độ lượng nhân bản và sự hy sinh của ta. Thế ta tự hỏi: bù vào đấy ta được gì? Không ai làm một việc gì mà lại không mong nhận được điều gì từ đó mà ra. Thế các vị thánh và bạn hữu nổi tiếng của Chúa đã nhận được điều gì khi thực hiện Ý Thiên Chúa? Thánh Inhaxiô viết rằng: “Phần thưởng cao nhất mà tôi tớ Chúa Kitô nên mong chờ ở người phàm đời này chính là điều mà Chúa của họ từng nhận được từ người đương thời của Người: chống đối, đóng đinh, và cái chết”. Nhưng liệu Thiên Chúa có ban cho những kẻ phục vụ Người điều chi không? Thưa có. Nhưng cái này bạn không nói về nó được. Bạn phải cảm nghiệm nó. Đó là một cảm nghiệm hân hoan không ai có thể ban, ngoại trừ Thiên Chúa; và Thiên Chúa không ban cho ai ngoại trừ cho kẻ thực hành Ý của Người, theo đúng mức họ thực hành Ý ấy.


Thánh Maria


Trong Kinh Cầu Đức Mẹ, Ngài có nhiều tước hiệu. Ngài có nhiều tước hiệu hơn nữa trong các giáo hội La Mã, và càng nhiều hơn nữa trong Phụng Vụ Byzantine. Tuy không đếm, nhưng ta biết trong lịch Byzantine, mỗi ngày đều có lễ kính một tước hiệu của Đức Mẹ. Tuy nhiên, Giáo Hội như một toàn thể dành tước hiệu “Thánh Maria” cho Ngài vì Ngài là người thánh thiện nhất trần đời; Ngài là tạo vật thánh thiện hơn cả, dĩ nhiên chỉ sau Chúa Kitô, Đấng vốn là Thiên Chúa.


Đức Mẹ thực hành mọi nhân đức tới mức siêu phàm. Ngài không bao giờ phạm tội, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng Ngài thánh thiện chủ yếu không phải vì những điều Ngài làm, vì như ta biết, Ngài đâu có làm chi phi thường đâu; Ngài thánh thiện chủ yếu vì chính con người của Ngài. Đức Mẹ vốn đầy ơn thánh Chúa. Ta cũng cần nhấn mạnh thêm điều này nữa: sự thánh thiện của Đức Mẹ không những chỉ vì Ngài là Mẹ Chúa Kitô và là Mẹ Thiên Chúa, mà Ngài còn sống trong tình thân hữu với Thiên Chúa nữa. Và loại thánh thiện này ai trong chúng ta cũng có thể với tới được, và nhờ ơn Chúa, đều có thể chiếm hữu được, tất cả chúng ta đều tin tưởng được là mình sống trong tình thân hữu với Người. Sự thánh thiện trong yếu tính này, sự thánh thiện ta cùng có với Đức Maria này, ta có được là nhờ ta sống trong trạng thái có ơn thánh.


Tuy nhiên cần phải nhớ rằng khi ta xưng Đức Mẹ là đấng thánh, không phải ta chỉ muốn nói tới sự thánh thiện của Ngài lúc đó mà thôi, lúc Ngài còn ở trên dương gian. Ta cũng nói tới Đức Maria và xưng Ngài là đấng thánh lúc này nữa. Ngài thánh thiện vì lúc này đây, trên thiên đàng, Ngài đang chiếm hữu cả một kho tàng vinh quang có thể sánh với sự đầy ơn phúc của Ngài khi còn trên dương thế.


Ơn thánh trên dương gian là điều kiện để được vinh quang. Mặc dù kiểu nói này hơi lạ, nhưng ta có quyền nói hiện nay trên thiên đàng, Đức Mẹ đầy vinh quang thay vì nói Đức Mẹ đầy ơn thánh. Ngài là người được vinh hiển đầy đủ nhất trong tất cả các tạo vật của Thiên Chúa, dĩ nhiên chỉ sau Con Thần Thánh của Ngài mà thôi. Ta không những có thể ca ngợi sự thánh thiện này mà còn cầu khấn được nữa. Trên thiên đàng, Ngài có quyền thế cầu bầu cho ta rất mạnh vì Ngài hết sức gần gũi Thiên Chúa. Ai càng gần Thiên Chúa thì càng thánh thiện. Đây là một từ ngữ khác để chỉ sự thánh thiện: gần gũi với Thiên Chúa. Đức Maria là người gần gũi nhất với Thiên Chúa. Vì Ngài gần gũi Thiên Chúa như thế nghĩa là thánh thiện như thế, nên Ngài mạnh thế trước toà Thiên Chúa hơn bất cứ thiên thần và vị thánh nào.

Đàng khác, không những ta có thể ca ngợi và khẩn cầu sự thánh thiện của Đức Maria, ta còn có thể bắt chước sự thánh thiện ấy nữa. Ngài là kiểu mẫu thánh thiện của ta. Như các tác giả thiêng liêng thường nói, Ngài là imitatrix Christi, người mô phỏng Chúa Kitô. Quả là tuyệt! Ngài là Đấng trung thành phản chiếu sự thánh thiện của Chúa Kitô qua các nhân đức Ngài từng thực hành. Tuy thế, ta cần ghi nhớ điều này: dù chắc chắn Ngài có thực hành các nhân đức luân lý như khôn ngoan, công bình, tiết độ và can đảm, nhưng chính việc Ngài thực hành điều ta gọi là nhân đức đối thần bác ái đã làm Ngài nên giống Chúa Kitô như thế trong tinh thần, vì Ngài yêu Chúa Kitô, Đấng về phương diện xác thịt giống như Ngài vì Người là Con Trai của Ngài.


Đức Mẹ Chúa Trời


Bà Êlisabét chào Đức Maria là “Mẹ Chúa tôi”. Và Giáo Hội từ đó cũng đã xưng hô với Ngài như thế. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô, Đấng vốn là Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Ngài vô nhiễm từ lúc được tượng thai. Khi Thiên Chúa ban ơn gọi, Người luôn đặt kế hoạch từ trước. Biết rằng Đức Maria sẽ là Hòm Bia Giao Ước và là Nhà Tạm đầu hết của Đấng Tối Cao, nên Thiên Chúa đã chuẩn bị thân xác và linh hồn của Ngài ngay lúc Ngài được tượng thai. Đó cũng là lý do tại sao, tựu chung, Ngài đã được triệu về trời cả hồn lẫn xác.


Tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” này quả là dấu chỉ đức tin chân chính. Chính dựa vào tiêu chuẩn này người ta nhận diện được các lạc giáo trong các thế kỷ đầu tiên. Những người nhìn nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng là những người tin rằng Con của Ngài là Thiên Chúa. Và từ đó đến nay cũng thế. Chỉ những ai thực sự tin vào thần tính của Chúa Kitô mới chấp nhận mẫu quyền Thiên Chúa của Đức Maria một cách đơn thành và không thắc mắc. Bất cứ ai dè dặt đối với việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng đều dè dặt với việc Con của Ngài là Thiên Chúa Vô Cùng.


Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử


Lời khẩn cầu cuối cùng này với Đức Trinh Nữ Diễm Phúc vừa là lời xưng thú vừa là lời nài van. Qua nó, ta xưng thú rằng, không như Đức Maria, tất cả chúng ta đều là người có tội. Hãy nhớ câu truyện chung quanh việc Đức Mẹ hiện ra với Thánh Nữ Bernadette tại Lộ Đức. Khi lần hạt Mân Côi, Đức Mẹ không đọc Kinh Kính Mừng, quả là đúng thay! Ngài làm sao khẩn cầu chính mình được. Nhưng hơn hết, Ngài không thể gọi mình điều mà Ngài không hề là, tức là kẻ có tội. Chúng ta mới là kẻ có tội. Không như Đức Maria, chúng ta là kẻ có tội do “thừa tự” mà có. Chúng ta được tượng thai một cách không phải là vô nhiễm mà là ô nhiễm (maculately), đầy tì vết, tì vết của tội lỗi mà toàn bộ nhân loại đều vướng phải, ngoại trừ Chúa Kitô và Mẹ của Người.


Hơn nữa, ta còn là kẻ có tội vì môi trường nữa. Dĩ nhiên, xã hội trong đó Đức Maria sinh sống cũng là một xã hội tội lỗi, nhưng không như Ngài, ta không những vướng tội lúc sinh ra trên đời mà còn vướng tội của những người quanh ta nữa. Nhất là ta bị vướng tội và là kẻ có tội vì sa phạm (commission), nghĩa là cố tình phạm đến Thiên Chúa. Bởi thế ở đây ta ta xưng thú ta là kẻ có tội.


Nhưng ngoài việc xưng thú, lời khẩn cầu kia cũng là lời nài nỉ, van xin. Xin Đức Mẹ cầu bầu với Chúa Kitô cho chúng ta. Trước nhất cho lúc này, lúc này đây, khi ta đang khiếp đảm nhớ lại tội lỗi quá khứ của mình, khi ta đang phải phấn đấu với chính mình và người khác để giữ mình khỏi phạm tội. Một trong những điều khó khăn nhất trong việc cư xử với người ta là giữ cho mình đừng vướng vào tội lỗi của họ. Nên ta cầu xin được giúp đỡ ngay trong lúc này.

Ta kết thúc bằng cách xin cho mình được bảo vệ vào giờ chết. Đây là lời cầu hàng ngày và nhiều lần trong ngày xin được bền đỗ đến cùng. Ta cần rõ ràng về điều mình xin. Giáo Hội khuyên ta tin rằng ta cần xin cho được ơn bền đỗ đến cùng là ơn tự nó ta chẳng đáng được dù cả đời sống đạo hạnh đi chăng nữa.

Không phải chỉ vì một người nào đó sống cuộc sống tốt mà tự họ có thể đảm bảo sẽ chết trong tình nghĩa với Chúa. Thêm vào cuộc sống ấy, ta phải cầu xin ơn đặc biệt để vào giây phút trước khi bước vào cõi đời đời, ta nhận được ơn chết trong tình nghĩa với Chúa. Ơn này sẽ được ban cho ta nhưng không phải vì ta xứng đáng nhận được nó nhờ cuộc sống tốt lành của ta. Nói cách khác, nhân đức mà thôi không phải là hứa hẹn sẽ được chết trong tình trạng ơn thánh. Đàng khác, ta phải cầu xin cho được ơn chết lành. Đây là ơn lớn nhất mà hữu thể nhân bản có thể nhận được. Không ơn nào có thể sánh với nó. Và Giáo Hội cho ta hay: ta phải liên lỉ và khẩn khoản cầu xin cho được ơn này. Đây là điều ta đang xin ở đây và tin tưởng hy vọng sẽ nhận được vì ta đang cầu xin Mẹ của Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét ta vào lúc ta lìa đời.


Ta xin Ngài cầu cùng Con Ngài xót thương. Người sẽ xót thương vì Người yêu Mẹ của Người. Đức Maria luôn nhận được điều Ngài muốn, miễn là chúng ta có niềm tin biết tin tưởng nơi Ngài và có lòng khiêm nhường nhìn nhận nhu cầu của ta.


Theo Cha John A. Hardon S.J trong cuốn Theology of Prayer

 

Vũ Văn An

Mục lục

 

 

DẪU CHA MẸ CÓ BỎ CON

Một trong những dấu ấn gây cho tôi rung cảm nhất, nhân chuyến về thăm lại giáo phận Kontum, là lần ghé thăm thứ hai nghĩa trang Thai Nhi tại thành phố Pleiku. Không chỉ số lượng phần mộ thai nhi bị tước mất quyền sống tăng hơn, mà còn có cả những tác động tâm linh sâu lắng khác được biểu lộ ra qua những người còn đang sống dưới nhiều hình thức khác nhau; như có thêm những nghĩa trang Thai Nhi khác mọc lên từ Nha Trang, Huế cho đến vài nơi khác tại miền Bắc; như có nhiều vần thơ, bài viết đồng cảm sâu sắc về số phận quá đắng cay xót xa; cũng như đã có nhiều tấm lòng đón nhận chăm sóc vài phần mộ và cầu nguyện cho các linh hồn của các thai nhi ấy; cũng còn có cả những biến đổi tích cực đến với nhiều người khi đang có ý định phá thai...

Khi cha Phêrô Nguyễn văn Đông, nguyên chánh xứ Đức An, giáo hạt Pleiku và là vị mục tử quan tâm thật sâu sát đến quyền được sống của các thai nhi, nằm điều trị bệnh tại Saigon, tôi đã được ngài cho hay rằng cháu Trung Thu của cha, dù đã chết tức tưởi ngay trong ngày trung thu năm 2004, nhưng khi cha đưa ngón tay chạm vào bàn tay của cháu, cha cảm thấy như có một lực siết ấn vào ngón tay đó tựa như thai nhi còn muốn níu kéo lấy sự sống từ trong sâu thẳm tâm hồn của cháu; đồng thời cháu như tỏ bày lòng biết ơn đến với người đã chăm lo cho linh hồn của cháu. Chính cái ấn tay kỳ diệu này mà sau đó cha phát hiện ra vết mụn trên ngón tay đã từ lâu không khỏi, giờ thì đã biến mất. Và trên giường bệnh, ngài vui vẻ hứa sẽ tặng cho tôi tấm hình kỳ lạ kia mà một người quen đã ghi lại được khỏang khắc bất chợt nhưng huyền diệu ấy.

Và rồi, vào trưa ngày 2/10/2008, khi ghé thăm cha Đông tại giáo xứ Thăng Thiên, nơi ngài hiện là chánh xứ kiêm hạt trưởng hạt Pleiku, giáo phận Kontum, ngài đã trao cho tôi tấm hình như ngài đã trao đổi, cùng những vần thơ sâu lắng mà một vài tác giả đã cảm xúc khi nhìn được nỗi đau vô tận của cháu Trung Thu.

Trên xe ra thăm phần đất chôn cất dành riêng cho thai nhi do cha Đông thành lập, anh chị em chúng tôi đã lắng nghe những tâm tình được thể hiện bằng những vần thơ nghẹn ngào mang tên “niềm đau của bé Trung Thu”, do tác giả An Trinh đã cảm tác khi nhìn thấy bé Trung Thu bị mất quyền được sống:

Trời ơi . . .  Con!!!                              Khi mắt con chưa mở

Hài nhi còn đỏ hỏn                            Đã mãi nhắm lại rồi.

Tại sao nên nông nỗi             Con bíu lấy tay ai

Bé bỏng trút tàn hơi                          Con muốn được làm lại

Mới sanh đã chết rồi!                       Bước đầu tiên con phải

Không một miếng chăn bông           Vào đời trong sợ hãi?!

Chẳng một manh áo mỏng               Hỡi con ơi.... tấm thân

Trần trụi con vào đời                        nằm cong queo lạc lõng

Chỉ khóc thôi chưa cười                   Đây – (tôi xấu hổ lắm)

Con chui ra từ đâu                            Vì chỉ có tấm lòng!!!

Mà lọt ngay hố sầu                            Xót xa trào lệ nóng

Phút giây nào trăng hoa                   Có ấm hồn con...

Để con bị sinh ra???                        Một chút nào không?

Liệu con có kịp thở                            Xin chia sẻ niềm đau

Như giun dế vào đời                          khi nhìn hình ảnh của bé Trung Thu.

 

Và qua nỗi đau thương của bé Trung Thu, nhà thơ Ngọc Quang cũng cảm nhận được tiếng kêu nài, van xin của những người con có cùng một số phận như bé Trung Thu vậy.

 

Con không có lời ru đưa con vào cuộc đời

để con được làm người.

Con không còn tiếng khóc chào đời

và làm người như bao người.

Xin thắp lên cho con một ngọn nến,

một nén nhang

cho lòng con được ấm lên

trong lòng đất lạnh tình người.

Xin cắm cho con một cành hoa

và một lời ăn năn dù chỉ  là muộn màng.

Con không được thấy

ánh trăng rằm đêm nay.

Con không được biết rong chơi

bên trống lân rằm.

Xin đến bên con luôn dù trời nắng,

dù gió mưa

cho lòng con được ủi an

nơi mộ vắng nghĩa địa buồn.

Xin hãy thương con, đừng bỏ con.

Con tội tình gì? Mẹ ơi! Cha ơi!

Khi đến nghĩa trang, những rung cảm trên vẫn còn vương vấn và khi lời đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là lời tha thiết “Chúng con tha thứ cho cha mẹ”, vài anh em đã lặng lẽ tỏa ra những phần mộ nhỏ gần tấm bia lớn với hàng chữ xót xa trên để cắm những nén nhang nghi ngút khói với một nỗi cảm thương sâu kín. Sau lời kinh quyện với khói hương trầm lắng, cùng tâm tình mà hai bạn Sỹ - Kim chia sẻ về những ơn lành thánh mà một người bạn mang bệnh gan của 2 người đã nhận được do 3 linh hồn thai nhi chuyển cầu, trong những lần trước anh chị tới đây và đã nhận chăm sóc cũng như cầu nguyện, một trong những bạn trong chúng tôi, có cả một thời gian dài sống buông thả, đã xin tình nguyện nhận xây 5 phần mộ của 5 thai nhi còn vô danh và, theo linh cảm của tôi, anh cũng đã phần nào giác ngộ về quãng đời một thời phóng đãng, như lời thơ “một lời ăn năn dù chỉ là muộn màng.”

Nghĩ đến đây, tôi liên tưởng đến giáo huấn của Giáo Hội được ghi trong Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo theo điều 2273 và 2274 như sau:

Quyền được sống là quyền bất khả nhượng của mọi người vô tội. Đây là một yếu tố nền tảng của xã hội dân sự và pháp luật: “Những quyền bất khả nhượng của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không tùy thuộc vào những cá nhân, không tùy thuộc vào các bậc cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của Nhà Nước, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do chính hành động Thiên Chúa sáng tạo nên con người. Trong những quyền căn bản ấy, phải kể đến quyền được sống và được toàn vẹn thân thể của mọi người từ lúc được thụ thai đến khi chết.” ....

Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải hết sức bảo vệ tòan vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác.”

Lời thơ của thi sĩ Xuân Vũ Trần Đình Ngọc thật thấm đậm tư tưởng trên, khi ông để lại tiếng kêu cứu của thai nhi với ước nguyện tha thiết và mong “được đối xử như một nhân vị” rằng:

 

Hãy sinh con ra! Nghe theo tiếng gọi

Của chính con – Của nhân loại lương tri

Cho con thành người – Con mong mỏi qua đi!

Nhẫn tâm giết – Tội sát nhân gớm ghiếc!

 

Con kết tinh của tình yêu tha thiết

Của mẹ cha – Của linh khí, anh hoa

Của yêu thương – Của tình ái chan hòa

Của son sắt – Của tơ duyên vĩnh cửu!

Ghi lại tại Saigon, 8/10/2008

Phêrô Vũ văn Quí CVK64

Email: peterquivu@gmail.com

Mục lục

  

Ngôi nhà gia đình

 

Người Công giáo có thói tục tốt lành thánh đức: làm phép nhà mỗi khi dọn vào nhà mới.

Đâu là ý nghĩa của tập tục thánh đức này?

Căn nhà hay ngôi nhà nào cũng có tường mái, trần vách, cửa sổ, cửa ra vào, cửa các phòng ngăn cách trong nhà, có giường tủ, bàn ghế, nhà bếp, cầu tiêu phòng tắm…

Đó là những căn bản cần thiết tạo nên căn nhà cùng cho nhu cầu sinh hoạt của con người sống trong đó.

Khi đi đâu xa nhà, ai chúng ta cũng thường nhớ về nhà mình ở. Nhớ về ngôi nhà, không chỉ nhớ đến cửa, bàn ghế, giừờng tủ, đồ vật trong đó, nhưng còn nhớ đến người thân thích ruột thịt cùng sống trong nhà, nhớ đến những biến cố kỷ niệm đời sống đã trải qua trong căn nhà.

Trong căn nhà sinh sống con người trao cho nhau tình thương yêu. Họ tiếp nhận hơi nồng ấm tình người từ vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh chị em trong nhà cùng sinh sống.

Trong căn nhà họ sống trải qua những niềm vui mừng hy vọng, cùng cả những điều lo lắng âu lo. Đời sống trong căn nhà là đời sống gia đình với những biến chuyển lên xuống, mà mọi người trong đó cùng đón nhận, cùng chia sẻ với nhau.

Có những người khi phải xa lìa căn nhà ngày xưa đã sinh sống, mỗi khi trở về đi ngang qua, họ đều dừng chân đứng ngắm nhìn ngôi nhà cũ với lòng thổn thức bùi ngùi. Vì những kỷ niệm ngày xưa thân ái hiện về trong trí nhớ tâm tưởng của họ mãnh liệt như sóng nước trào dâng. Đó là điều tự nhiên của đời sống con người có thân xác, có trí khôn tinh thần cùng có tình tự cảm gíac. Và có như thế, đời sống mới là một con đường dài liên tục với nhiều chặng thay đổi khác nhau, nhưng lịch sử đời sống không vì thế bị mai một xóa bỏ.

Không chối cãi, một ngôi nhà xây dựng có những chạm khắc, trình bày trang trí hoa văn, trông đẹp mắt hấp dẫn cùng có gía trị thêm ra. Nhưng ngôi nhà nào cũng là nôi hay nơi chốn tụ tập sinh sống giữa vợ chồng, cha mẹ con cháu, anh chị em với nhau , xa rộng hơn nữa với bạn bè người quen biết họ hàng hay cả người xa lạ ghé đến nói chuyện thăm hỏi nhau. Sức sống trong ngôi nhà giữa con người với nhau là phần quan trọng thiết yếu mang đến cho ngôi nhà làm bằng gạch gỗ trở nên sống động tràn đầy ý nghĩa.

Khi cánh cửa nhà rộng mở cho con người trong gia đình, đời sống trong căn nhà càng sống động. Và như thế đời sống gia đình trở nên đầm ấm nhiều hơn.

Khi cánh cửa nhà mở rộng cho mọi người được vào đến hàn huyên nói chuyện, không khí tình người không bị giới hạn, trái lại nhịp cầu thông cảm hiểu biết được bắc nối liền.

Với người Công giáo chúng ta, ngôi nhà gia đình cư ngụ sinh sống còn mang ý nghĩa nhiều hơn là một tổ ấm cho cư ngụ: Ngôi nhà ân đức sự sống.

Và vì thế, họ dâng tâm tình cầu xin Thiên Chúa đến thánh hóa chúc phúc lành cho ngôi nhà, cho gia đình sinh sống trong đó. Ân đức sự sống là qùa tặng của Trời cao, nên phải được trân trọng giữ gìn sao cho thánh thiêng không bị làm cho trở nên tầm thường xấu xa tội lỗi.

Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, xin Chúa thánh hóa ngôi nhà gia đình chúng con sinh sống tụ họp lại trong danh Chúa và biết dựa đời sống vào Chúa là nền tảng. Xin Chúa thánh hóa ngôi nhà gia đình chúng con.

Xin Chúa ban bằng an hồn xác cho gia đình chúng con trong ngôi nhà này, và chúc lành cho vợ chồng con cháu cùng những ông bà, cha mẹ, người quen thân, bạn bè cùng mọi người đến thăm gia đình chúng con. Xin Chúa thánh hóa ngôi nhà gia đình chúng con.

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

 

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008

Bài 8:

CHÚA THÁNH THẦN VÀ HOA TRÁI THẦN KHÍ (Gl 5)

 

Trong chương 5 của Thư gửi người Galát, thánh Phaolô có nói đến các hoa trái của Thần Khí. Hôm nay cha giáo G.B. Hoàng Văn Khanh giúp chúng ta tìm hiểu các hoa trái ấy.

 

Lm. G.B. Hoàng Văn Khanh

 

 THÁNH THẦN NHƯ MỘT NGÔI VỊ: THÁNH THẦN TÌNH YÊU

Ngôn ngữ thần học gọi Thần Khí như một Ngôi vị. Khái niệm Ngôi vị bao hàm tư cách và chức năng. Khi nói Cha là Ngôi vị thì tư cách của Ngôi vị đó "là Cha" và chức năng của Ngôi vị đó là "làm Cha", tức sinh ra Con, yêu thương Con. Khi nói Con là Ngôi vị, thì tư cách của Ngôi vị Con "là Con" và chức năng là "làm Con", nghĩa là đón nhận sự sinh ra và tình yêu của Cha, đồng thời đáp trả bằng tình con thảo. Vậy, đâu là tư cách và chức năng của Ngôi vị Thần Khí ? Vấn đề đã được đặt ra từ những thể kỷ IV-V trong bối cảnh một số lạc thuyết chủ trương Thần Khí không thể ngang hàng với Chúa Cha vì được Chúa Cha đổ tràn (Ed 39,29), được Cha trao ban (Ga 7,39); cũng không thể ngang hàng với Chúa Con vì được Con sai đi (Ga 15,26). Ðể đối phó với những lạc thuyết đó, ngôn ngữ Công đồng và thần học đã sử dụng những khái niệm triết học đồng bản thể, nhiệm xuất, nhiệm xuy để khẳng định thần tính của Chúa Thánh Thần, Ðấng được phụng thờ và tôn vinh hoàn toàn cùng với Chúa Cha và Chúa Con.

 

Trong tương quan với Chúa Cha và Chúa Con, Thần Khí xem ra như thiếu Ngôi vị tính, thụ động: được ban cho, được đổ tràn, được sai đến. nhưng trong khi thi hành sứ vụ được giao, ngôn ngữ Kinh Thánh cho thấy Thần Khí như một Ðấng đầy ngôi vị tính, năng động, mạnh mẽ, tích cực (Is 11,1-5; Tl 3,10; 1S 1,6; 10,1; Am 3,8; 7,14; Gr 20,7). Kinh Thánh cho thấy Thần Khí tuôn tràn như cơn mưa đem sự sống cho vùng đất khô cằn (Is 32,15; 44,3; Ed 36,25; Gr 3,1), như sinh khí làm sống động những bộ xương khô (Ed 37), như một sáng tạo mới thay đổi bộ mặt xứ sở (Is 32,16), thay đổi con tim, lòng dạ con người (Is 59,21; Tv 143,10; Ed 39,29), tác sinh (Ga 6,63; Lc 1,35), tái sinh (Ga 3,8), phục sinh (Rm 8,11), mạc khải chân lý (Ga 16,13).

 

Thánh Gregoriô Naziance đã sử dụng ý niệm processio để bênh vực thần tính của Chúa Thánh Thần (procedit a Patre). Từ ngữ này được Công đồng Constantinople I đưa vào tín biểu. Sau đó, sự xuất phát của Thánh Thần được thần học đặt tên là spiratio hoặc processio amoris. Spiratio do spiritus, spirare có nghĩa là thở ra, thở ra tình yêu (spirans amorem). Processio amoris là gì ?


Do sự thông đạt hoàn toàn giữa Cha và Con nảy ra tình yêu. Thánh Thần ví với tình yêu giữa Cha và Con. Trong lịch sử thần học, khi trình bày mối liên hệ giữa Thánh thần với Cha và Con, người ta nhận thấy có hai lối diễn tả khác nhau nơi Tôma và Bonaventura, tuy cả hai cũng dựa trên Augustin.

 

Thánh Augustin đã ví sự xuất phát của Thánh Thần với tình yêu: amans, quod amatur, amor. Tôma đi từ Thiên Chúa như là Hữu thể (Esse), một hữu thể tinh thần với hai tác động là tri thức và yêu mến; từ đó có hai nhiệm xuất của Lời và của Tình yêu (tức Ngôi Hai và Thánh Thần). Thánh Bonaventura thì khởi sự từ Thiên Chúa như là Sự Thiện (Bonum). Sự Thiện tự bản chất là thông đạt toả lan (bonum diffusivum sui). Thiên Chúa là Sự Thiện tuyệt đối, cho nên cũng trào ra và thông đạt: Cha là kẻ yêu thông ban mình cho Con; Con là kẻ được yêu tiếp đón tình yêu của Cha; Thánh Thần là tình yêu nối kết Cha và Con.

 

Dù diễn tả cách nào đi nữa, Thánh Thần vẫn được coi như Tình Yêu liên kết Cha và Con, Tình Yêu trao ban hỗ tương. Hơn thế nữa, Tình Yêu ấy không khép kín trong nội tại của Thiên Chúa, nhưng tiếp tục trao ban dạt dào ra ngoài. Vì thế, tất cả mọi hoạt động của Thiên Chúa ra bên ngoài (tạo dựng và cứu chuộc) đều được coi như trào ra từ tình yêu trao ban nội tại của Ba Ngôi (x. AG 2). Như vậy, tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện đều bắt nguồn từ tình yêu dạt dào của Người. Nói thế có nghĩa là tất cả những gì Thiên Chúa làm trong vũ trụ và lịch sử nhân loại đều bởi Thánh Thần, tình yêu trao ban và đón nhận giữa Cha và Con. Ðối lại Thánh Thần biểu lộ cho thấy Thiên Chúa là Tình yêu, là Hồng ân trao ban (1Ga 4,8.16).

 

Nơi con người, tình yêu thường mang tính chiếm đoạt đối tượng thiện hảo, giữ khư khư cho mình; còn nơi Thiên Chúa, tình yêu thông ban chứ không nắm giữ chiếm đoạt. Hơn thế, khi ban phát chính mình, tình yêu nơi Thiên Chúa ra như huỷ diệt chính mình. Chúa Giêsu đã từng nói không có tình yêu nào cao quý cho bằng chết cho người mình yêu (Ga 15,13). Ngài đã tự hạ, tự huỷ cho đến chết trên thập giá (Pl 2,6-11). Cũng có thể nói một cách tương tự như vậy về Thánh Thần Tình yêu. Ngài không tỏ mình xuất hiện nhưng âm thầm tác động trong vai trò mối dây liên kết Cha với Con. Ngài cũng là mối dây kết tụ Hội thánh nên một gia đình và đưa về hiệp nhất với Thiên Chúa. Ngài được ví như hơi thở làn gió. Ngài là tình yêu kín đáo nép mình trong nội tâm sâu thẳm của Thiên Chúa cũng như trong thâm tâm của con người (1 Cr 2,11). Tuy nhhiên chính nhờ việc ẩn danh xoá mình đó mà Thánh Thần tinh yêu duy trì cho các bản vị được tự lập chứ không bị xoá nhoà tiêu diệt. Con người khi yêu thì muốn chiếm đoạt hoàn toàn người mình yêu, muốn hoàn toàn đồng hoá với đối tượng yêu; còn tình yêu nơi Thiên Chúa thì không như thế. Sự thông đạt tình yêu đòi phải duy trì hai chủ thể, nếu không thì không còn là thông đạt. Giữa lòng Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn luôn có sự thông đạt: tình yêu liên kết các ngôi vị, tạo nên hiệp nhất nhưng không huỷ bỏ sự phân biệt Ba Ngôi. Ðó là mầu nhiệm thông hiệp: hợp nhất trong khác biệt đa dạng. Thánh Thần tình yêu bảo đảm cho sự thông hiệp giữa lòng Ba Ngôi thì cũng trở thành nguyên tố và mẫu mực cho sự thông hiệp trong Hội thánh.

 

THÁNH THẦN TÁC ÐỘNG TRONG LỊCH SỬ CỨU ÐỘ

 

Ðành rằng phải chờ đến Tân ước, mạc khải về Thánh Thần như một Ngôi vị mới rõ ràng, thế nhưng khi đọc lại toàn thể lịch sử cứu độ dưới ánh sáng Phục sinh, Kitô hữu nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần ngay từ buổi đầu sáng tạo. Phân tích các bản văn Cựu ước, ta thấy nói tới "ruah Yaweh" (Thần Khí Chúa) không những đã hiện diện vào buổi đầu tạo dựng vũ trụ, nhưng còn tiếp tục duy trì cho các vật được hiện hữu. Nếu Thiên Chúa rút Thần Khí lại thì mọi vật tan tành mây khói. Thánh Thần được kêu cầu như Thần Khí tác tạo (Creator Spiritus).

 

Cựu ước cho thấy Thần Khí Chúa hoạt động cách đặc biệt nơi lịch sử Israel, qua việc kêu gọi và thành lập dân Thiên Chúa mà lịch sử tạo dựng là hậu cảnh cần thiết. Xuất hành là khởi đầu cho tạo dựng mới. Qua Xuất hành và qua kinh ngiệm sa mạc, Thần Khí dẫn dắt Israel về Ðất hứa. Môisê được lãnh nhận Thần Khí để lãnh đạo dân (Ds 11,16); từ Môisê, Thần Khí xuống trên 70 vị bô lão (Ds 11,17.25-26). Môisê mong toàn dân được đầy Thần Khí (Ds 11,29). Ðiều này sẽ được ngôn sứ Gioen xác định vào ngày cuối cùng (Ge 3,1-5) và sẽ thành hiện thực vào Lễ Hiện xuống đầu tiên (Cv 2,1tt). Thần Khí từ Môisê qua Giosuê bằng việc đặt tay (Ðnl 34,9; Ds 27,18-23); và từ đây bắt đầu một truyền thống sống động mà đối tượng là Thần Khí: các Thủ lãnh nhận Thần Khí (Tl 3,10), Saul là vị vua đầu tiên của Israel nhận Thần Khí (1 Sm 10,6), rồi Ðavít (1 Sm16,13)...

 

Niềm hy vọng của dân là được lãnh nhận Thần Khí như các ngôn sứ đã từng loan báo (Is 32,15; 44,3; Ge 3,1-5). Ngôn sứ Giêrêmia nói về Giao ước mới do Thiên Chúa thiết lập bằng Luật ghi trong tâm hồn (Gr 31,31tt). Êdêkien cho rằng lời hứa về Giao ước mới và Lề luật ấy cốt tại những ân phúc của Thần Khí (Ed 36,26-27) là sự thánh thiện, sự trung tín, sự sống (Ed 37,1-14). Các ngôn sứ khẳng định sẽ xuất hiện Ðấng được xức dầu (Messia = Kitô) là vị vua tràn đầy Thần Khí, có nhiệm vụ dẫn đưa dân đến cùng Thiên Chúa của họ. Isaia đệ nhị trình bày người Tôi tớ đầy Thần Khí để đem Thần Khí đến cho muôn dân (Is 42,5). Người Tôi Tớ được chọn để làm giao ước với dân và nên ánh sáng chiếu soi muôn nước (Is 42,5-6), mang cứu độ đến tận cùng trái đất (Is 50,4-11).

 

Ðến thời viên mãn, Tân ước cho thấy tác động của Thánh Thần trong cuộc đời sứ vụ của Chúa Giêsu, từ nhập thể đến Phục sinh; rồi từ Phục sinh, Thánh Thần trở nên hồng ân mà Ðức Kitô ban cho nhân loại. Có thể kể ra ba trường hợp điển hình:Thánh Thần can thiệp đặc biệt vào lúc nhập thể (Truyền tin), Lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá. Chính lúc Chúa Giêsu tắt thở, không phải trút hơi lìa đời mà là trao nộp Thần Khí. Chương trình cứu rỗi được hoàn tất do việc Ðức Kitô hiến mạng sống cho người mình yêu; cử chỉ tình yêu ấy được đóng ấn với sự trao ban Thần Khí. Thần khí được ban từ hồi nguyên thuỷ, nay được ban dồi dào từ cái chết của Ðức Kitô như mạch suối nước hằng sống (Ga 19.20; 7,37-39). Việc trao ban Thánh Thần được biểu thị hữu hình khi Chúa Giêsu nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Thánh Phaolô nói Thánh Thần được trao ban từ cuộc phục sinh của Ðức Kitô trở thành sinh lực cho ta, biến ta thành con cái Chúa và là bảo chứng cho việc chúng ta sống lại mai sau.

 

Thời của Hội thánh. Chúa Thánh Thần là tác nhân siêu việt. Người đã nói qua các ngôn sứ, qua việc chuẩn bị và hiện thực hoá mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô trong tâm hồn mọi người và trong lịch sử nhân loại. Người giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ sứ vụ của Giáo hội, đặc biệt sứ vụ truyền giáo (MR 21). Người chuẩn bị cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội qua việc gieo vãi và phát triển những ân huệ nơi tất cả mọi dân tộc, nơi nền văn hoá và tôn giáo của họ. Chính Thánh Thần là Ðấng gieo vãi những hạt giống của Lời (sermences du Verbe) đang hiện diện nơi họ và chuẩn bị cho sự chín mùi của họ nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhiệm vụ này được thực hiện đầy đủ khi mọi người được hoàn toàn trở thành những tạo vật mới nơi hình ảnh của Thiên Chúa, mà qua đó họ đã được tiền định từ ban đầu. Vì thế, chỉ có một sứ vụ cứu độ từ Chúa Cha đến với nhân loại, thông qua Ðức Giêsu Kitô, Người Con Một, Ngôi lời nhập thể, và Chúa Thánh Thần (RM 36). Ðặc biệt, sách Công vụ đề cập đến hoạt động của Thánh Thần, xuất hiện như Ðấng linh hứng của Lời, Ðấng thổi sinh khí cho đời sống Giáo hội, Ðấng hướng dẫn sứ vụ truyền giáo của Giáo hội.

 

THÁNH THẦN VÀ HOA TRÁI THẦN KHÍ

 

1. Thánh Thần như ân huệ (Spiritus Sanctus ut Donum)

 

Trong lòng Ba Ngôi, Thánh Thần là Tình yêu trao ban giữa Cha và Con. Tình yêu trao ban ấy tràn trào trên vũ trụ và nhân loại. Ðặc biệt, Thánh Thần là ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Hội thánh qua Ðức Kitô chết và sống lại. Thánh Thần tuôn tràn trên Hội thánh nhiều dạng hồng ân khác nhau nhằm xây dựng Hội thánh và cộng đoàn. Thần học thường nói tới bảy ân huệ của Chúa Thánh Thần. Thần học về bảy ân huệ dựa trên đoạn văn Is 11,1-2. Ngôn sứ nói đến vị vua lý tưởng thuộc dòng Ðavít, được Thần khí trang điểm với các nhân đức lỗi lạc vượt xa các tiền bối. Theo nguyên bản Hipri, có 6 đức tính ghép từng đôi một: Thần khí khôn ngoan và thông hiểu (Esprit de sagesse et dintelligence); Thần khí định liệu và mạnh bao (Esprit de conseil et de force); Thần khí nhận biết và kính sợ Giavê (Esprit de science et de crainte de Yahvé). Không hiểu vì lý do gì mà đức tính chót (kính sợ Giavê) lại được lặp lại ở câu 3 tiếp theo (Ngài được đầy tràn Thần khí kính sợ). Có lẽ vì muốn tránh sự trùng hợp lặp lại, nên bản dich Septante và Vulgata đã đổi kính sợ Chúa ở câu 2 ra là hiếu thảo (eusebia, pietas). Từ đó có thể đếm được 7: Khôn ngoan (sapientia) giúp ta gắn bó với Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc đích thực; Thông hiểu (intellectus) ban cho ta hiểu biết sâu xa các chân lý đức tin; Nhận biết (Scientia) giúp phán đoán giá trị của các thụ tạo theo ánh sáng đức tin; Ðịnh liệu (consilium) cho ta biết chọn lựa con đường nào hợp ý Chúa và ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn; Hiếu thảo (pietas) ban cho ta lòng tôn thờ Thiên Chúa với tinh thần con thảo và liên hệ với mọi người như con một Cha; Mạnh bạo (fortitudo) giúp vượt thắng mọi khó khăn hoặc chịu đựng đau khổ bằng sức mạnh Chúa ban; Kính sợ Chúa (Timor dei) để biết tránh tội và loại bỏ sự quyến luyến của cải trần thế khi nó làm mất lòng tôn kính yêu mến Chúa.

 

Thánh Tôma đã trình bày cách hệ thống vai trò của 7 ơn Chúa Thánh Thần trong đời sống của Kitô hữu. Theo Tôma, con người khao khát tìm kiếm hanh phúc. Hanh phúc thật là Thiên Chúa vì chỉ có nơi Chúa, con người mới tìm thoả mãn tất cả mọi khát khao về hiểu biết và ước muốn. Làm thế nào để đạt hạnh phúc ấy? Bằng hai cách: sự cố gắng của con người qua việc thực hành các nhân đức, đàng khác nhờ vào chính Thiên Chúa. Thực vậy Chúa đến giúp đỡ chúng ta bằng lời chỉ giáo của Người (Tôma gọi là Luật Chúa) và bằng ân sủng (Tôma nhấn mạnh luật mới = luật Tân ước hệ tại ơn thánh của Chúa Thánh Thần ghi khắc trong tâm khảm con người. Trong bối cảnh đó mà Tôma trình bày 7 ân huệ Chúa Thánh Thần. 7 ân huệ ấy được ban cho ta để kiện cường 7 nhân đức trụ, cốt điều khiển tất cả các hành vi: 3 nhân đức đối thần (tin-cậy- mến), 4 nhân đức luân lý: khôn ngoan, công bằng, tiết độ, can đảm. Tương ứng với đức tin là hai ơn thông hiểu và nhận biết; với đức cậy là ơn kính sợ; với đức mến là ơn khôn ngoan, với đức khôn ngoan là ơn định liệu, với đức công bằng là ơn hiếu thảo, với tiết độ là ơn kính sợ, với đức can đảm là ơn mạnh bạo.

 

2. Hoa trái Thần Khí (Gl 5)

 

Thư Galát và Rôma rất giống nhau về giáo thuyết. Thư Rôma quảng diễn với những luận cứ sâu sắc những đạo lý mà Phaolô đã trình bày trong thư Galát: Luật không có khả năng ban ơn công chính hoá. Luật không còn giá trị khi Chúa Kitô đến. Ngài chết để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ luật. Mọi người tội lỗi được công chính hoá không phải do việc tuân giữ luật, nhưng nhờ đức tin vào Ðức Kitô chết và sống lại. Vì thế, Kitô hữu nổ lực sống đời sống mới bằng sự thánh thiện và bác ái trong niềm hy vọng chờ đợi ngày Chúa quang lâm.

 

Thư Galát nhấn mạnh hơn vai trò của luật là nhà sư phạm (Gl 3,23-26). Ðặc biệt, trong thơ Galát, thánh Phaolô minh định thế giá tông đồ của mình (Gl 1-2; 6,17). Thánh nhân minh chứng ngài là tông đồ như các tông đồ, vì được Chúa Giêsu phục sinh chọn gọi và trực tiếp mạc khải. Thơ Galát còn cho ta biết nhiều về con người và hoạt động của Phaolô. Do đó, ta thường dùng thơ Galát so sánh với Công vụ để tìm hiểu về thân thế và hoạt động truyền giáo của thánh nhân.

Mở đầu chương 4 thư Galát, Phaolô đề cập đến sự tự do đích thực của Kitô hữu. Ngài khẳng định bao lâu còn sống dưới lề luật, con người không thể có tự do; chỉ khi nào biết đặt mình dưới luật của Thánh Thần, ta mới có thể đạt tới tự do đích thực và trổ sinh hoa trái Thần Khí đối nghịch với những hành động của xác thịt.

 

Sau đó Phaolô liệt kê 14 hành động xấu mà Phaolô gọi là hành động do xác thịt làm băng hoại con người, đó là "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ say sưa" (Gl 5,19-21). Ðối lại với những hành động theo xác thịt này, Phaolô trân trọng nêu lên 9 thái độ tích cực mà ngài gọi là hoa trái của Thần Khí, đó là: "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23)

 

Theo Phaolô, các hành động tích cực kể trên không do khả năng con người đắc thủ. Ngài dùng từ hoa trái để ám chỉ đó là ân huệ, nghĩa là cái gì thật đáng yêu, quyến rũ, tốt đẹp, tự phát, tươi vui và ngọt ngào như trái trăng thơm ngon trổ sinh từ "Thánh Thần". Ta sống và thực hiện nhưng chính Thánh Thần làm phát sinh hoa trái. Ngài dùng ở số ít (dù là 9 hành vi) như muốn cho thấy sự thống nhất của đời sống mới ngược với cuộc sống phân rẽ theo xác thịt và theo tinh thần thế gian. Do đó, từ hoa trái diễn tả sự phong phú của các ân huệ Thánh Thần. Những thực tại sống động kia được Thánh Thần đặt nơi mỗi người, không riêng cho ai, để điều hành cuộc sống mới do Ðức Kitô chết và phục sinh đem lại. Ðó chính là nền luân lý Kitô giáo đích thực hoàn toàn đối nghịch với nền luân lý giới hạn và mang tính áp đặt. Phaolô gọi dó là nền Luân lý Tân ước, Luân lý Tin Mừng, Luân lý Thánh Thần.

 

Nói đến luân lý, thường người ta nghĩ ngay đến việc được phép làm điều này điều nọ và cấm không được làm thế này khác (không được vì dó là tội). Ðó chỉ là mức độ sơ đẳng và tự nhiên của luân lý. Cao hơn là một luân lý bổn phận (E. Kant): đáp ứng quyền lợi, đòi hỏi chính đáng của kẻ khác; bổn phận và trách nhiệm xây dựng xã hội; tôn trọng quyền lợi tha nhân.... Ở đây, Phaolô trình bày một luân lý cao hơn, đẹp hơn nhiều vì nói đến cái tốt, cái đẹp, cái tươi mát, đem lại hạnh phúc, tạo nên cuộc sống tươi vui hy vọng và phong phú. Ðó chính là nền luân lý Tin Mừng, luân lý của Thánh Thần, không chỉ nhằm xây dựng một xã hội trật tự, công bằng, mà nhất là tạo dựng một xã hội tươi vui, yêu thương và huynh đệ mà Ðức Phaolô VI và Ðức Gioan Phaolô II gọi là một nền văn minh tình thương.

 

Kitô hữu trổ sinh Hoa Trái Thần Khí bằng ba cách thế theo lối diễn tả Thánh Kinh:

- con tim, nghĩa là bằng những tình cảm sâu đậm nhất của tâm hồn;

- miệng lưỡi, nghĩa là bằng đối thoại lắng nghe;

- đôi tay, nghĩa là bằng hành động.


Như thế, ta có thể chia hoa trái Thần Khí thành ba phạm trù:

- Hành động con tim: yêu thương, hoan lạc và an bình.

- Hành động miệng lưỡi: nhẫn nhục, nhân hậu và hiền hoà.

- Hành động đôi tay: tốt lành, trung tín, tự chủ.

 

Tất cả đều tạo nên vẻ đẹp và duyên dáng cho đời sống Kitô hữu theo bát phúc, sự phong phú sung mãn của một cuộc sống theo Tin Mừng.

 

1. Tình yêu

 

Tình yêu được xếp đầu trong bảng hoa trái Thần Khí. Ta có thể tìm một ví dụ cụ thể về tình yêu trong Lc 7,11-17 (Ðức Giêsu hồi sinh con trai bà goá Naim) hay câu chuyện người Samaritanô. Tinh yêu gợi lên biết bao ý nghĩa xuyên suốt các Tin Mừng. Ở đây, chỉ cần dừng lại nơi hai ý chính trong mạch văn thơ Galát:

 

- Tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong tâm hồn chúng ta. Ðây chính là thái độ tóm kết toàn bộ luân lý Tin Mừng. Trong Gl 5,14 Phaolô đã khẳng định: "Tất cả Lề luật được nên trọn lành trong điều răn duy nhất này là ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình".

 

- Một nghĩa khác tổng quát hơn, đó là sự chân tình, lòng cảm mến, lòng tốt. Ðây là một thái độ nội tâm đi trước mọi tư tưởng, lời nói, hành động hướng về điều thiện, là thái độ cơ bản và tiên quyết cho việc mở rộng tâm hồn đón nhận luân lý mới của Tin Mừng. Ta lược qua đoạn Tin Mừng Luca về việc hồi sinh cho con trai bà goá Naim để thấy rõ hơn. Trong sự kiện này, ta dễ nhận ra 3 thái độ: trên đôi tay, trên miệng và trong con tim.

Từ sự chạnh thương của con tim (trong Kinh Thánh, từ chạnh lòng thường dùng cho Thiên Chúa) dẫn tới lời an ủi vỗ về và sau cùng đưa tới hành động. Tình yêu hay lòng chân thành của con tim khơi mào cho mọi hành động kế tiếp. Tình yêu chính là sự chân tình, lòng thương cảm, con tim rộng mở. Ðó chính là khả năng hiểu được nỗi đau, niềm vui của người khác. Rm 12,9-10.15 nói đến sự chạnh thương bằng: "Vui với người vui, khóc với kẻ khóc", nghĩa là đi vào được trong các tâm tình của anh em.

 

Tiếng sympathie (sumpàscho) có nghĩa là hoà đồng với. Sự chân tình, lòng cảm mến tạo nên ý muốn trao dâng và hiệp thông với kẻ khác trước khi làm cho họ điều tốt lành. Ngược lại với tình yêu chân tình là sự độc ác của con tim, tâm hồn hẹp hòi đưa tới ích kỷ, hưởng thụ, kiêu căng và dửng dưng trước mọi hoàn cảnh của người khác (người giàu có và Lazarô nghèo khổ).

Hãy biến mình thành tình yêu để tình yêu ấy chan hoà khắp nơi và cho mọi người. Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4,8). Con người được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Tình yêu là căn tính và lý do hiện hữu của con người: con người được dựng nên vì và cho tình yêu. Ðó vừa là dấu chỉ của người môn đệ Ðức Kitô vừa là mệnh lệnh: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con yêu thương nhau"; "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Ðó cũng là tiêu chuẩn của phán xét chung (Mt 25).

 

2. Sự tốt lành

 

Nếu tình yêu là hành động của con tim làm nền tảng cho mọi hành vi thiện hảo, thì sự tốt lành là hành vi thuộc đôi tay, cũng gọi là sự tốt lành hành động.

 

Tốt lành là gì? Sự tốt lành dịch từ Hy ngữ agatosùne, có nghĩa là một hành động tốt phát sinh hiệu quả tốt nơi người khác. Ðể hiểu hành động này tốt lành này, ta có thể đọc lại Cv 9,36t: Tabitha, một phụ nữ "tốt lành" không những bằng những lời lẽ tốt đẹp mà nhất là bằng "đôi tay", tức bằng hành động để giúp đỡ và phục vụ người khác. Trong diễn từ tại nhà Corneille, Phêrô nhấn mạnh đến Ðức Giêsu, Ðấng là sự tốt lành khi nói: "Ði tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài" (Cv 10,38). Ðức Giêsu bày tỏ sự tốt lành qua việc chữa lành - vừa biểu thị sự tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, vừa bày tỏ Ngài là Ðấng Messia mà các Ngôn sứ đã từng loan báo. Cảm động nhất là câu chuyện chữa người câm điếc do Marcô thuật lại (Mc 7,36-37), hoặc Ðức Giêsu chữa người mù bẩm sinh trong Tin mừng Gioan.

Sự tốt lành có khả năng biến đổi người khác, tạo cho họ niềm vui, hy vọng và khát khao xây dựng lại cuộc đời. Như thế, sự tốt lành là hoa trái Thần Khí làm nảy sinh trong tâm hồn agapè, tức tình yêu, lòng thương cảm; cũng chính sự tốt lành thúc đẩy ý chí thực hành điều tốt cho mọi người.

 

Sự tốt lành xuất phát từ Thiên Chúa là Ðấng tốt lành: "Sao nói Tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa" (Lc l8,18-19). Chúa tốt lành nên Người đã tạo thành vũ trụ nhân loại, và mọi sự Người dựng nên đều tốt lành (St 1). Vì sự tốt lành là hoa trái của Thần Khí, chứ không do nỗ lực con người thủ đắc, nên có được là do khiêm tốn cầu xin và biết hết lòng tri ân.

 

Sự tốt lành còn là biểu lộ niềm vui trong tâm hồn.

Có thể nói niềm vui là nguồn của lòng tốt lành. Ông Booz bày tỏ sự tốt lành khi kết hôn với bà Ruth. Trước khi kết hôn, Sách Rút 3,7 viết: "Lòng ông Booz vui tươi hớn hở". Huấn ca 30,22 viết: "Tâm hồn sướng vui thì con người giàu sức sống". Sự tốt lành còn bộc lộ niềm vui khi biết trao ban: "Cho thì vui hơn là nhận" (Cv 20,35).

 

Trong thơ gởi giáo đoàn Êphêsô, khi nói đến đời sống mới trong Ðức Kitô, thánh Phaolô nhắc lại sự tốt lành xuất phát từ ánh sáng của chân lý Tin Mừng: "Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là tốt lành, công chính và chân thật" (Ep 5,9). Như thế, lòng tốt lành Tin Mừng cảm hứng từ sự tốt lành cứu độ của Ðức Kitô, một tốt lành không ngừng giải thoát, thi ân và sáng tạo. Sự tốt lành theo Tin Mừng khao khát làm cho kẻ khác điều mình ước ao cho bản thân, và như thế là đã làm trọn lề luật: "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn Lề luật Ðức Kitô" (Gl 6,2). Sự tốt lành hướng về tha nhân để mong và làm điều thiện hảo cho anh em theo tinh thần của 1 Cr 13,4-7; nhưng hoàn toàn khác với tình nhu nhược mặc ai muốn làm gì thì làm, vô tư chẳng cần lưu tâm, vì lòng tốt lành luôn tôn trọng và thăng tiến nhân phẩm. Lòng tốt lành xây dựng con người và cuộc sống cho mình và cho mọi người. Ðó chính là tình yêu, là Chúa yêu tôi và đến lượt mình, tôi bày tỏ cho kẻ khác: "Hãy yêu nhau như Thầy yêu anh em" (Ga 13,34). Yêu cả những kẻ thù ghét mình (Mt 5,44-48). Và như thế, ta mới thật sự nên "trọn lành như cha trên trời là Ðấng trọn lành" (Lc 6,36).

 

Nghịch với lòng tốt lành là tâm hồn xấu xa, độc ác, chuyện tạo sự xấu cho anh em. Tâm hồn độc ác phá hủy đời sống; đó cũng là chính hành động của ma quỷ nhằm tiêu diệt thế giới, lịch sử, nhân loại. Nhân loại luôn có nguy cơ bị ma quỷ và bè lũ phá hủy và tiêu diệt, nhưng cũng không ngừng được giải thoát và cứu độ bởi Thiên Chúa tốt lành và những ai thuộc về Người.

 

3. Tiết độ và tự chủ

 

Ðây không phải là những nhân đức nền tảng như những nhân đức mà chúng ta vừa trình bày trên: lòng yêu thương, sự chân tình, lòng thương cảm, sự tốt lành. Nhưng là những yếu tố hết sức quan trọng cho đời sống bản thân và xã hội.

 

Tiết độ, Hy ngữ là epieikeia, xuất hiện 7 lần trong Tân ước, thường trong những khuyến dụ luân lý. Epieikeia có nghĩa gì? Trong thơ gởi tín hữu Êphêsô 4,4-5, epieikeia được dịch là điều hoà (modération) hay là nhã nhặn (affabilité). Trong thơ thứ hai gởi giáo đoàn Côrintô (2 Cr 10,1), nó có nghĩa là sự hiền hoà (douceur). Trong Công vụ (Cv 24,3-4), nó có nghĩa là lòng khoan hậu (clémence). Dựa vào những ý nghĩa trên, ta có thể hiểu epieikeia là lòng tôn trọng đối với kẻ khác của những ai có chút quyền hành. Hiểu và thực hiện điều ấy, chắc chắn xã hội sẽ hạnh phúc hơn: ngược lại xã hội sẽ đầy dẫy những bất công và tranh chấp. Ðiều này cũng được áp dụng trong gia đình giữa cha mẹ và con cái, trong học đường giữa thầy trò, trong Giáo hội giữa Chủ Chăn và đoàn chiên, giữa giám mục và linh mục...

 

Epieikeia là sự tôn trọng, nhã nhặn, điều hoà, mềm mỏng, quân bình trong việc áp dụng luật lệ và nguyên tắc. Ðó là khả năng biết trước những trường hợp ngoại lệ thích hợp. Ðó cũng là sự chiếu cố đối với kẻ dưới người gặp hoàn cảnh khó khăn... Ðức Giêsu là mẫu gương lý tưởng cho chúng ta trong việc thực thi epieikeia: "Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, là không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng dã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân, sống như người phàm. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết là cái chết trên thập giá..." (Pl 2,6-8).

 

Sự tự chủ giúp kiềm chế các tình cảm cá nhân, đẩy lui bản năng dùng uy quyền, từ chối mọi tìm kiếm tư lợi, tránh xa mọi lợi dụng áp đặt trên kẻ bề dưới, kẻ yếu đuối, nghèo hèn... Sự tự chủ giúp xa lánh tinh thần tự tôn, bạo lực trong mọi tương giao, kể cả bạo lực luân lý. Sự tự chủ giúp lánh xa mọi lạm dụng làm giảm nhẹ nhân phẩm người khác. Ðó quả là một nhân đức xã hội nền tảng. Ðức Giêsu là mẫu mực cho sự tự chủ khi Ngài chỉ biết tìm và ban hạnh phúc cho người khác. Thánh Phaolô viết trong thơ Galát: "Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gl 5,23). Thánh Phêrô viết trong 1 Pr 3,8-10: "Anh em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn... Ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa".

 

4. Lòng nhân hậu - hiền hoà - nhẫn nại

 

Lòng nhân hậu (chrèstotès: bienveillance, amabilité) trước hết là cách cư xử của Chúa đối vớt con người như Chúa Giêsu đã nói: "Thiên Chúa nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,35). Ðức Giêsu đã từng phá đổ những rào cản của các truyền thống Do thái để đồng bàn với những người thu thuế, đi tìm và gặp gỡ những người tội lỗi... Lòng nhân hậu đặt người khác trong sự thoải mái nhẹ nhàng, dù họ đang trong tình trạng bối rối; lòng nhân hậu bày tỏ sự tôn trọng, quan tâm và cởi mở đối với người khác, làm cho họ thấy mình có giá trị và từ đó hy vọng trào dâng để làm lại cuộc đời. Nhân hậu còn là sự ân cần vồn vã với người khác. Ta hiểu rõ điều này khi đọc lại câu chuyện thăm viếng (Lc 1,39-45). Lòng nhân hậu quả là một nghệ thuật đón tiếp, gặp gỡ, trao đổi... làm kẻ khác cảm thấy dễ chịu, vui tươi và sẵn lòng cộng tác (x. Rm 12,10).

 

Sự hiền hoà (prautes). Nhiều khi người ta hiểu lầm sự hiền hoà với yếu đuối, ngây ngô. Không! Ðây là một đức tính anh hùng mà Ðức Giêsu đã từng dạy: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). Hiền lành là điều được Ðức Giêsu chúc phúc: "Phúc cho ai hiền lành" (Mt 5,5). Ngươi hiền lành đồng hoá với người nghèo (anawim). Sự hiền hoà làm dịu nóng giận mà Giacôbê từng khuyên trong Gc 1,19-21.

 

Nhẫn nại (makrothumos: longanimité). Ðâu là nhân đức giúp ta sống niềm hy vọng trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nếu không phải sự nhẫn nại. Nó liên kết với sự nhã nhặn và hiền hoà để là ai thành bộ ba quan trọng cho cuộc sống trong tương quan xã hội. Trước hết, ta đọc lại bài dụ ngôn Ðức Giêsu kể trong Lc 13,6-9 nói về sự nhẫn nại. Sau đó, ta cũng thấy Sách Khôn ngoan 15, 1-2 khẳng định nhẫn nại là một thái độ thần linh. Thiên Chúa không hề nôn nóng. Người luôn nhẫn nại chờ đợi. Nhiều dụ ngôn Tin Mừng cho biết Thiên Chúa luôn nhẫn lại chờ đợi người tội lỗi hối cải để ban ơn tha thứ. Nhẫn nại là đức tính của người tông đồ, nhà giảng thuyết, mục tử không hề được nản lòng, dù trước những thất bại trước mắt, nhưng có can đảm chờ đợi để khoảng cách và thời gian Chúa Thánh Thần hoạt động!

 

5. Vui mừng và bình an

 

Nếu trong Cựu ước vang lên những tâm tình vui mừng qua các thánh thi, thánh vịnh, thánh ca, những tâm tình chúc tụng, tạ ơn, thờ phượng; thì niềm vui càng phở lở biết mấy trong Tân ước như trong diễn từ biệt ly, Ðức Giêsu đã từng nói với các môn đệ về niềm vui (Ga 15,11; 16,22-24). Vui mừng (chara) xuất hiện 59 lần trong Tân ước. Các bản văn Luca, Gioan và Phaolô đặc biệt tràn đầy niềm vui; chẳng hạn Pl 4,4-7. Heinrich Schlier gọi niềm vui là sự oà vỡ của niềm hy vọng.

 

Thiên Chúa yêu thích kẻ cho với niềm vui (2 Cr 9,7) vì đó là cách cho tốt nhất. Ðức Phaolô VI nói trong Thiên Chúa, tất cả đều là niềm vui vì tất cả là ân ban. Niềm vui gắn liền với ân huệ: vui khi cho và vui được đón nhận.

Niềm vui còn là dấu hiệu Chúa Thánh Thần hiện diện trong tâm hồn, và trong cộng đoàn. Sứ mệnh và mọi hoạt động của Ðức Kitô nhằm kiến tạo và đem lại cho ta niềm vui, sự hoan lạc sung mãn trong Nước Trời mà ngay từ bây giờ bắt đầu. Trong ý nghĩa đó, niềm vui là đặc tính của Nước Thiên Chúa.

 

Ðối lại với niềm vui là sự buồn chán làm mọi cái nên nặng nề. Buồn chán còn là tên gọi của sự trầm uất, một căn bệnh thời đại do bất mãn, bi quan về cuộc đời và định mệnh...

 

Bình an là tổng hợp mọi điều thiện hảo như Kinh Thánh thường hiểu. Ta có thể đọc lại ba bản văn đặc biệt đề cập đến sự bình an: Pl 4,7; Cl 3,14-15; 2 Cr 13,11. Trước khi nói về sự bình an, Thánh Phaolô nói: "Anh em đừng lo lắng gì cả" (Pl 4,6).

 

Thật vậy, nghịch lại với bình an không phải chỉ là chiến tranh cho bằng sự lo âu, băn khoăn, lo lắng? Vì thế, bình an trước hết là yếu tố giúp ta thoát khỏi lo âu; và đó là một ân huệ do Chúa thương ban. Bình an còn là cảm giác "như ở nhà", nghĩa là cảm thấy thân thiện thoải mái trong bầu khí gia đình. Gia đình đây là nhà Chúa, là sự an nghỉ trong Chúa như thánh Augustin từng thốt lên: "hồn con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa". Bình an còn là kết quả của một tâm hồn trong sáng, tin tưởng phó thác, biết từ bỏ.

 

Sau cùng, hạnh phúc cho ai biết kiến tạo hoà bình (Mt 5,9). Người kiến tạo hoà bình cần biết đơn giản hoá vấn đề; biết khoanh tròn vấn đề, hạn chế và giải quyết nhanh chóng các tranh chấp.

 

Kết luận

 

Sau một vòng rảo qua vườn cây Thánh Thần để tham quan và chiêm ngắm các hoa trái của Người. Ðáng khâm phục biết bao kiệt tác vĩ đại của Người, đó là xây dựng con người mới, con người theo Tin Mừng. Những hoa trái của vườn cây Thánh Thần ấy đều tóm gồm trong tình yêu, nghĩa là mối tương quan đích thực và tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con cái của Người. Từ tình yêu, trổ sinh muôn nghìn trái trăng: hoan lạc, an bình, tươi vui, hiền hoà, khiêm tốn, nhẫn nhục, tự chủ, từ tâm... Tất cả đều phát sinh từ mối tương quan tốt dẹp và thánh thiện mà ta có với Thiên Chúa và với tha nhân. Ðiều này làm nhớ lại lời thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Côlôsê: "Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liến kết thiện hảo" (Cl 3,14). Hoa trái thì vô vàn, nhưng chung quy chỉ là một: Tình yêu. Yêu thương là hoan lạc, là an bình, là từ tâm, là dễ thương, là khiêm tốn, nhã nhặn, ôn hoà... (x. 1 Cr 13). Do đó cần mở rộng con tim và cõi lòng cho ân huệ Thánh Thần, Ðấng là Tình yêu.

 

------------------------------------------------------------

Thư mục:

 

M. Quesnel, Les épitres aux Corinthiens, CE 22, 1977

E. Cothenet, L’épitre aux Galates, CE 34, 1980
J. Murphy OConnor, L’existence chrétienne selon Saint Paul, Cerf, 1984

 

Mục lục

 

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

Song thân Thánh Têrêsa dịp phong Chân Phước

 

Ðức Hồng Y Saraiva Martin, vị Hồng Y nghỉ hưu của Thánh Bộ Phong Thánh đã tuyên bố ngài sẽ chủ sự thánh lễ Phong Chân Phước (Á Thánh) cho Ông Louis và Bà Marie-Zélie Martin, thân phụ và thân mẫu Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành hôn của hai Ông Bà.

Chúa Nhật, ngày 13 tháng 7 năm 2008, trong thánh lễ cử hành tại Thánh Ðường Ðức Bà Cả (Notre-Dame Church) tại Alencon, Ðức Hồng Y Saraiva Martin, vị Hồng Y nghỉ hưu của Thánh Bộ Phong Thánh đã tuyên bố ngài sẽ chủ sự thánh lễ Phong Chân Phước (Á Thánh) cho Ông Louis và Bà Marie-Zélie Martin, thân phụ và thân mẫu Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành hôn của hai Ông Bà. Lễ phong Chân Phước sẽ được cử hành tại Vương Cung Thánh Ðường Lisieux, vào Chúa Nhật Truyền Giáo, ngày 19 tháng 10 năm 2008.

Theo Ðức Hồng Y Martin thì Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã chấp nhận phép lạ do lời cầu bầu của hai vị Ðáng Kính Louis và Marie-Zélie Martin. Phép lạ xẩy ra cho em Pietro Schiliro ở Monza nước Ý. Pietro sinh năm 2002 với chứng fatal lung malformation. Linh mục Antonio Sangalli thuộc dòng Camêlô đã khuyên cha mẹ em làm tuần Cửu Nhật kính thân phụ mẫu Thánh Têrêsa để được sức chịu đựng bệnh tật. Nhưng cha mẹ em lại xin cho được ơn chữa lành. Trước đó, năm 1989, các phúc trình kết quả điều tra đời sống Ðức Tin và nhân đức anh hùng của hai vị đã được hoàn tất. Hai vị đã được tôn vinh là Ðáng Kính, bước đầu cho tiến trình phong Chân Phước và Hiển Thánh.

Trong lịch sử Giáo Hội, có rất ít trường hợp các vị thánh xuất thân từ trong cùng một gia đình, thí dụ Thánh Monica và con là Thánh Augustinô. Riêng Giáo Hội Việt Nam, đã có hai trường hợp tương tự, trường hợp một đại gia đình có ba vị Thánh Tử Ðạo, người đương thời gọi là “Nhất gia tam Thánh”, gồm Thánh Ðaminh Khảm, Giuse Tả, và Luca Thìn. Gia đình thứ hai gồm hai Thánh, đó là Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ và nhạc phụ là Thánh Antôn Nguyễn Ðích. Nhưng chưa có một trường hợp nào, trong một gia đình cả vợ lẫn chồng đều được phong Chân Phước cùng một ngày. Trường hợp duy nhất này sẽ xẩy ra cho thân phụ và thân mẫu Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu. Một linh mục dòng Tên trước đây đã viết trong cuốn Một Tâm Hồn dịch qua tiếng Tây Ban Nha lời đề tặng: “Muôn đời kính nhớ Thân Phụ phúc hậu chị Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công Giáo”.

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

- Chân Phước Louis Martin (1823-1894):

Louis Martin sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 tại Bordeaux, nước Pháp. Thân phụ là Ðại Úy trong đoàn quân pháo thủ bình giặc ở Tây Ban Nha. Năm 19 tuổi thanh niên Martin học nghề chữa đồng hồ. Năm 22 tuổi, xin đi tu, nhưng vì không theo nổi môn Latin, nên phải bỏ cuộc. Về nhà, Marin ra sức học Latin thêm 2 năm nữa, nhưng sau đó không thấy tiến bộ nên quyết định bỏ cuộc. Giấc mơ làm linh mục không thành, Martin đã mở một tiệm đồng hồ tại thị trấn Alencon miền Bắc nước Pháp, và thuộc phía Tây thành Paris.

Năm 35 tuổi, Louis Martin gặp Zélie Guérin, một thiếu nữ trẻ hơn chàng 8 tuổi làm nghề sản xuất giây dầy. Lễ thành hôn Louis-Zélie được cử hành đơn giản ngày 13 tháng 7 năm 1858 tại nhà thờ Ðức Bà Alencon. Một chi tiết nhỏ nhưng nói lên sự thánh thiện của cặp vợ chồng trẻ này là mấy tháng đầu họ đã sống với nhau như anh em. Nhưng sau hiểu được ý Chúa, thì cả hai lại sẵn sàng đón nhận những người con mà Chúa ban cho trong đời sống hôn nhân. Trong số 9 người con có 2 trai và 7 gái. Hai người con trai và hai người con gái đầu đã qua đời khi còn rất trẻ. Còn lại 5 người con gái, tất cả đều dâng mình làm nữ tu:

- Marie-Louise: Nữ tu Dòng Kín Lisieux.

- Marie-Pauline: Bề trên Dòng Kín Lisieux.

- Marie-Léonie: Nữ tu Dòng Thăm Viếng.

- Marie-Céline: Nữ tu Dòng Kín Lisieux.

- Marie-Thérèse: Nữ tu Dòng Kín Lisieux.

Sau khi người vợ trẻ qua đời vào năm 1877, ông Marin lãnh lấy trách nhiệm dậy dỗ con cái. Trong số 5 người con gái, ba cô còn ở tuổi thiếu niên, riêng Céline lúc đó mới 8 tuổi, và gái út là Têrêsa mới lên 4.

Sau khi Bà Zélie qua đời, và theo lời khuyên của bà trước lúc lâm chung, ông Marin đã đem gia đình về Lisieux sống gần gia đình người em trai của bà trong trang trại Buissonnets với hy vọng các con nhận được sự giúp đỡ và an ủi của những người thân yêu. Ông nghỉ không làm nghề sửa chữa đồng hồ và dành trọn thời giờ chăm lo và giáo dục các con.

Trong sinh hoạt tông đồ, Ông tham gia hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn và là một hội viên rất nhiệt thành. Năm 1887, Ông đưa hai con gái út là Céline và Têrêsa đi du lịch một vòng Âu Châu, và trong dịp này, do sự khuyến khích của Ông, Têrêsa đã mạnh dạn xin với Ðức Lêô XIII cho phép mình được vào tu dòng kín Camêlô khi mới được 15 tuổi.

Sau khi các con Ông lần lượt theo nhau vào tu Dòng Kín, Ông còn lại một mình sống âm thầm để chia sẻ con đường Thánh Giá của Chúa Cứu Thế. Năm 1887, Ông bị đột quỵ và chấn thương thần kinh. Ngày 12 tháng 12 năm 1889, Ông nghỉ bệnh tại Bon Sauveur, Caen. Ông phải điều trị 3 năm trong nhà dưỡng lão. Ngày 10 tháng 5 năm 1892, Ông đã được gia đình người em vợ đem về nhà chăm sóc cẩn thận. Thời gian này, Céline ngày đêm săn sóc ba cho đến khi Ông từ trần ngày 29 tháng 7 năm 1894. Sau khi Ông từ trần, cô cũng đã vào tu Dòng Kín Camêlô.

- Chân Phước Zélie Guérin (1831-1877):

Sinh ngày 23 tháng 12 năm 1831, là người con thứ hai trong số 3 người con của một cựu chiến binh ở Alencon. Mẹ của Zélie Guérin nổi tiếng là người đàn bà khắc khổ và cứng rắn trong việc giáo dục con cái. Chị cả của cô dâng mình vào nhà tu và trở thành nữ tu. Cô muốn noi gương chị, xin vào dòng Chị Em Bác Ái Thánh Vinh Sơn, nhưng bị từ chối.

Sau khi biết mình không có ơn kêu gọi trong bậc tu trì, Zélie cầu xin Chúa cho mình một người chồng tốt, đạo đức để tâm giáo dục con cái nên người hữu ích cho Giáo Hội và xã hội. Bà cũng cầu xin Chúa ban cho mình có con, nhất là con trai để sau này dâng cho Chúa làm linh mục thừa sai rao giảng Tin Mừng. Lời cầu xin đã được Chúa nhận lời, và cuộc hôn nhân của Bà đã đem lại 9 người con, nhưng bốn người con đầu trong đó 2 trai và 2 gái đã qua đời trong tuổi thơ. Têrêxa là con út trong số 9 người con sau này được tôn phong Hiển Thánh, làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo và làm Tiến Sỹ Hội Thánh. Một vị tiến sỹ trẻ nhất trong 33 vị Tiến Sỹ của Giáo Hội, và là 1 trong 3 vị Nữ Tiến Sỹ.

Bà Zélie qua đời ngày 28 tháng 8 năm 1877 khi vừa tròn 45 tuổi sau 5 năm chịu đựng do chứng bệnh ung thư.

ÐỜI SỐNG VÀ ẢNH HƯỞNG GIÁO DỤC

“Xem quả thì biết cây”. Ðó là câu nói bình dân của người Việt Nam nhằm diễn tả ảnh hưởng tương quan giữa cha mẹ và con cái trong lãnh vực giáo dục. Nhìn vào đời sống của 5 người con gái, và đặc biệt, riêng Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thì ảnh hưởng giáo dục của thân phụ và thân mẫu đã được phản ảnh rõ ràng trong cuộc đời tận hiến của tất cả 5 người con, đặc biệt là Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu. Nhưng liệu lối sống ấy có phù hợp và có thể áp dụng vào đời sống của chúng ta hiện nay không?

- Ðời sống vợ chồng:

Không cần phải thêu dệt hoặc tưởng tượng, chúng ta cũng có thể hiểu và tin rằng cuộc sống hôn nhân của Ông Bà là một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Tuy nhiên, vì là con người, nên chúng ta cũng có quyền tin rằng không phải lúc nào cuộc đời cũng êm xuôi và thanh bình đối với hai vị. Nếu vậy, sẽ không minh chứng được sự hy sinh của các ngài. Ðiều làm cho chúng ta kính phục là hai vị đã chịu đựng, đã hy sinh cá nhân mình để bầu khí gia đình luôn hạnh phúc. Và bí quyết đã giúp hai vị chấp nhận những trái ý và thử thách trong cuộc sống là lời cầu nguyện và hy sinh.

Bận bịu với chồng và 5 con. Chịu đựng những đau đớn do bệnh tật, nhất là 5 năm cuối cuộc đời. Và sau cùng là phải bỏ lại người chồng yêu dấu và 5 con thơ vào tuổi 45, đây là một thử thách lớn cho Bà Zélie. Giữ được sự bằng an, và nụ cười trong những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi một nhân đức anh hùng.

Ðối với Ông Louis Martin, sự chịu đựng và hy sinh có thể nói là thực sự bắt đầu khi người vợ thân yêu của Ông bỏ Ông lại với 5 người con trong lúc Ông ở tuổi 53. Ông đã ở vậy cho đến chết để nuôi nấng và giáo dục con. Nhưng sự hy sinh cao cả nhất của Ông là nhìn từng người con bỏ Ông vào dòng Kín hoặc đi tu. Cũng như người vợ hiền của Ông, Ông đã can đảm dâng cho Chúa những người con của mình. Trên giường bệnh và trước lúc từ giã cõi đời, bên Ông chỉ còn một người con duy nhất là Cécinle, mà Ông biết là cũng đang mang ý tưởng tu trì.

- Giáo dục con cái:

Sự trọn lành và thánh thiện của ơn gọi hôn nhân không chỉ dừng lại ở nơi người chồng, người vợ hoặc cả hai, mà còn trực tiếp liên quan đến việc sinh sản và giáo dục con cái nữa. Ðể biết hai Ông Bà đã giáo dục con cái họ như thế nào và theo tinh thần nào, chúng ta hãy theo dõi những lời kể của chính Thánh Têrêsa về thân phụ và thân mẫu của mình. Trong cuốn tự truyện Một Tâm Hồn. Thánh Nữ đã viết về mẹ mình như sau:

“Có một buổi sáng, mẹ muốn hôn Têrêsa rồi mới xuống gác. Xem như nó còn ngủ mệt, mẹ không dám làm nó thức dậy; song chị Marie nó nói: “Mẹ ơi, con chắc em giả cách ngủ đấy!” Mẹ liền cúi hôn mặt nó, nó kéo ngay chăn lên trùm kín cả mặt rồi nói lụng bụng: “Chẳng cần ai thăm nom con hết!” Mẹ đã không bằng lòng cử chỉ ấy và cũng làm nó hiểu thế”. (Một Tâm Hồn, tr. 22).

“Con không thể quên cái ngày chị chịu lễ lần đầu; con còn nhớ cả cô gái nhà nghèo, là bạn thân chị mà me đã may áo mới cho để mặc ngày ấy, như thói lành những nhà khá giả trong tỉnh Alencon. Cô bạn, suốt ngày vui mừng ấy, không rời chị Léonie một phút. Ðến tối lúc ăn tiệc mừng, cô được hân hạnh ngồi ghế danh dự chính giữa!” (Một Tâm Hồn, tr. 24).

“Ði chơi mát hay gặp kẻ khó, nên mẹ đã giao cho con công tác mang tiền làm phúc”. (Một Tâm Hồn, tr.29).

Về cách thức sửa phạt con cái, cũng chính Têrêsa đã viết:

“Mẹ khiển trách một cách nhẹ nhàng nhưng không kém phần nghiêm khắc bất cứ lỗi lầm nào của các con dù là những lỗi lầm nhỏ nhặt nhất. Mẹ dậy dỗ và hướng dẫn các con cầu nguyện. Từ thuở còn thơ, đám con cái chúng tôi đã được mẹ tập làm những việc hy sinh bé nhỏ để dâng lên Chúa, làm đẹp lòng Người.”

Và Têrêsa đã kết luận về mẹ mình: “Con cái được quây quần xunh quanh một người mẹ tốt lành như vậy làm sao không trở nên tốt lành giống như mẹ.”

Ông Martin cũng có cùng một đường lối giáo dục tương tự. Têrêsa đã viết về cha của mình:

“Chiều chiều, con thường được theo cha đi chơi mát, rồi vào nhà thờ viếng Mình Thánh, hôm nay nhà thờ này, hôm mai nhà thờ khác. Nhân thế mà con được vào viếng Chúa ở nhà nguyện Dòng Kín lần thứ nhất. Lần ấy cha bảo con rằng: Này! Con xem bên trong phên sắt, hàng có các bà Dòng thánh thiện cầu nguyện cả ngày”. (Một Tâm Hồn, tr.36).

“Chơi đoạn, cả nhà lại lên gác đọc kinh. Ở trên gác con vẫn được ngồi bên cha, con chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết được cách các thánh cầu nguyện”. (Một Tâm Hồn, tr.47).

Thương con, chiều con nhưng không làm hư con. Têrêsa đã tiết lộ cho thấy thái độ cứng rắn của cha mình trong cách giáo dục như sau:

“Tuy nhiên cũng không nói được là cha nuông con đâu. Con nhớ một lần, con đang chơi đu vui thích lắm, cha đi qua gọi con rằng:

- Công chúa cha ơi, lại hôn cha nào.

Không hiểu sao hôm ấy con không muốn lại, con đứng yên đấy và thưa hổn xược:

- Cha lại đây kia.

Cha đã xử rất phải: Không lại. (Một Tâm Hồn, tr.21).

Và đặc biệt, trong dịp lễ Giáng Sinh khi Têrêsa lên 14 tuổi. Lúc ấy, Têrêsa xem ra vẫn còn vòi vĩnh, cư xử như con nít, và điều này không làm cho Ông Martin vui. Ông nghĩ đã đến lúc cần phải sửa sai lại lối sống này của Têrêsa.

“Khi bước lên phòng, con nghe thấy cha nói những lời như xé ruột rằng: “Một con gái lớn như Têrêsa mà còn phải chiều như thế này, trẻ con lắm! Cha hy vọng đây là lần sau hết”. (Một Tâm Hồn, tr. 100).

a) Giáo dục tinh thần: Ðối với những phụ huynh quan tâm đến tương lai của con cái, thì việc giáo dục đang là đề tài nóng bỏng của chúng ta hiện nay. Nhưng điều quan trọng không phải là giáo dục về những kỹ năng và khả năng chuyên môn, mà là về những ảnh hưởng tâm linh của các em. Tuổi trẻ ngày nay biết rất nhiều và rất sớm về những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Do dinh dưỡng đầy đủ, các em cũng đã phát triển rất sớm về mặt sinh lý. Và song song với đà tiến bộ của tư tưởng, lối sống, tuổi trẻ ngày nay cũng phát triển nhanh về mặt tâm lý.

Những khía cạnh phát triển về xã hội, tâm sinh lý và lý trí đang trở nên một thách thức rất lớn trong các chương trình giáo dục. Ðặc biệt, tại các quốc gia Âu Mỹ khi mà nền giáo dục cổ điển đang từ từ được thay thế bằng nền giáo dục có tính cách nhân bản và tâm lý ứng dụng hơn.

Càng đi sâu vào ảnh hưởng giáo dục, chúng ta càng khám phá ra rằng những đường lối giáo dục hiện nay đều thiếu sót nếu vắng bóng ảnh hưởng giáo dục tâm linh, tức nền giáo dục về tôn giáo và đạo đức. Thật ra, con người trưởng thành cần phải được phát triển đồng đều giữa thể lý, tâm lý và tâm linh. Tất cả ba yếu tố phát triển này hòa nhập để đem đến kết quả của giáo dục là một con người trưởng thành về cả ba mặt thể lý, tâm lý và tâm linh.

Thánh Gioan Boscô đã nói: “Ðể làm thánh thì cần phải làm người trước đã”. Theo thánh nhân, thì sự thánh thiện của một người chính là trưởng thành về đời sống tâm linh trong sự trưởng thành về tâm lý và thể lý. Như vậy, ở một mức độ nào đó, sự trưởng thành về tâm linh quan trọng hơn và cần thiết hơn trong lãnh vực giáo dục. Ở đây, chúng ta thấy song thân của Thánh Têrêsa đã thấu hiểu về quan điểm giáo dục này, và đã dành nhiều chú tâm về vấn đề này. Và có lẽ chính nhờ ở nền giáo dục tâm linh, chúng ta đã nhìn thấy kết quả tốt đẹp nơi 5 người con của Ông Bà. Chúng ta hãy nghe lại những gì mà Têrêsa đã ghi nhận về ảnh hưởng giáo dục này:

“Ði chơi mát hay gặp kẻ khó, nên mẹ đã giao cho con công tác mang tiền làm phúc”. (Một Tâm Hồn, tr.29).

“Mẹ dậy dỗ và hướng dẫn các con cầu nguyện. Từ thuở còn thơ, đám con cái chúng tôi đã được mẹ tập làm những việc hy sinh bé nhỏ để dâng lên Chúa, làm đẹp lòng Người.” Thái độ này hoàn toàn khác với thái độ của người vú mà Têrêsa đã nhận xét: “Bà không được như mẹ! Mẹ bao giờ cũng kèm chúng ta đọc kinh kia mà” (Một Tâm Hồn, tr. 31).

Về phần Ông Louis Martin, Têrêsa cũng đã viết:

“Chiều chiều, con thường được theo cha đi chơi mát, rồi vào nhà thờ viếng Mình Thánh, hôm nay nhà thờ này, hôm mai nhà thờ khác. Nhân thế mà con được vào viếng Chúa ở nhà nguyện Dòng Kín lần thứ nhất. Lần ấy cha bảo con rằng: Này! Con xem bên trong phên sắt, hàng có các bà Dòng thánh thiện cầu nguyện cả ngày”. (Một Tâm Hồn, tr.36).

“Chơi đoạn, cả nhà lại lên gác đọc kinh. Ở trên gác con vẫn được ngồi bên cha, con chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết được cách các thánh cầu nguyện”. (Một Tâm Hồn, tr.47).

b) Giáo dục bằng gương sáng: Quan trọng hơn cả là Ông Bà không chỉ dậy con cái, nhưng là sống lời mình dậy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Câu ca dao của người Việt Nam đã ứng dụng hết sức đúng vào quan niệm và đường lối giáo dục của song thân Têrêsa. Thánh Têrêsa đã nhận định về đường lối giáo dục này:

“Chơi đoạn, cả nhà lại lên gác đọc kinh. Ở trên gác con vẫn được ngồi bên cha, con chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết được cách các thánh cầu nguyện”. (Một Tâm Hồn, tr.47).

“Chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết được cách các thánh cầu nguyện”. Ảnh hưởng giáo dục qua cách sống và thực hành của cha mẹ, đối với Têrêsa là những ảnh hưởng mà con cái không thể từ chối được: “Con cái được quây quần xunh quanh một người mẹ tốt lành như vậy làm sao không trở nên tốt lành giống như mẹ.”

Quan niệm giáo dục bằng hành động là một quan niệm giáo dục hết sức phổ thông. Tâm lý học cũng không loại bỏ ảnh hưởng này và coi đây là một phương pháp giáo dục hữu hiệu nhất. Trong các khảo cứu về tình trạng con cái hư hỏng, hoặc trong những nghiên cứu về mối tương quan giữa cha mẹ và con cái đều cho thấy rằng, đa số các trẻ em tội phạm đều phát xuất từ các gia đình mà trong đó cha mẹ hoặc là bê tha, hoặc là coi thường việc giáo dục.

Tóm lại, song thân của Thánh Têrêsa tuy không mang một mảnh bằng giáo dục hay tâm lý nào, nhưng với lòng yêu mến Thiên Chúa, và dựa vào tâm lý tự nhiên đã hiểu rằng Ông Bà cần phải có một đời sống tốt mới có thể giáo dục được con cái. Một cách thực tế, đó là Ông Bà đã sống và đã làm điều mình muốn truyền thụ lại cho con cái. Sau này khi được tôn phong Hiển Thánh, hy vọng các ngài sẽ được tôn vinh làm Bổn Mạng giới phụ huynh.

Tham Khảo:

- Những Tấm Gương Sống Ðạo Giữa Ðời

Tác giả: Lê Thiên & Lê Tinh Thông

Nhà Xuất Bản Ðức Mẹ Trà Kiệu, 1999

- Têrêsa, Vị Thánh lớn nhất của thời đại mới

Tác giả: Hương Việt

Xuất bản: Nhóm Hương Việt, Paris, 1997

- Một Tâm Hồn

Hồi Ký Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu

Dịch giả: Kim Thiếu

Xuất bản: Nhà Kín Saigon, Việt Nam, 1960

Trần Mỹ Duyệt

Mục lục

 

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Hội chứng nuông chiều con cái

 

 

Tôi từng chứng kiến nhiều cô bé, cậu bé với bộ mặt lầm lì, nói chuyện “nhát gừng” với người khác. Có dịp tìm hiểu kỹ hơn mới thấy, hầu hết những cô, cậu bé ấy đều sống trong những gia đình được cha mẹ “cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa”.

 

Chyện từ thực tế…

 

Duyên mới 13 tuổi nhưng trông “già” hơn tuổi thật. Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt hằn học và bộ mặt “nặng nề”. Tôi hỏi gì Duyên cũng không buồn trả lời hoặc có lúc lại nói với vẻ đầy gắt gỏng: “Không biết!”. Bước đi, tôi mừng thầm vì nó không phải là con cháu mình. Người nóng tính có thể nói : “Mất dạy!”. Người mới gặp lần đầu có thể suy đoán: “Chắc cha mẹ nó không biết cách dạy, không thể dạy hoặc ảnh hưởng gia đình không hạnh phúc…”. Còn tôi thì biết rõ gia đình Duyên. Cha mẹ Duyên không khó khăn, không nghèo khổ. Thậm chí, họ là những người tri thức và giàu có. Họ rất thương con. Duyên được cha mẹ chiều chuộng đủ thứ, cô bé muốn gì có nấy. Trong suy nghĩ của cha mẹ Duyên, đấy là cử chỉ thể hiện tình thương của cha mẹ đối với con, và như thế sẽ đem lại hạnh phúc cho con, giúp con tự tin và sống cân bằng… Nhưng người ngoài tiếp xúc với Duyên mới thấy rõ một điều: Ở tuổi thiếu niên mà Duyên đã mang tâm trạng đầy đa nghi, dễ gắt gỏng và nổi nòng với bất kỳ ai. Duyên thể hiện hành vi như một người mất tự chủ, mất phương hướng. Gần đây, tôi đến nhà một người bạn ở Phú Nhuận (TP.HCM), tình cờ chứng kiến cảnh tượng: An-cô con gái của bạn tôi mới 6 tuổi nhưng đã biết quát một đứa bạn đến chơi khi bé này lấy mấy đĩa CD ra khỏi kệ và bỏ trên nền nhà: “Liên, bạn tồi quá, vứt đĩa của An vậy hả ?”. Mẹ An không nói gì và lặng lẽ ngồi nhặt từng cái đĩa cất đi dùm An xin lỗi nhưng An vẫn cứ cằn nhằn mãi. Ra về, tôi cứ nghĩ về cách cư xử của mẹ An. Sao chị lại nuông chiều con thái quá thế nhỉ ? Lẽ ra, chị nên thẳng thắn với con, bắt con xin lỗi bạn và nói năng cho đàng hoàng. Đằng này, chị lại làm lơ và còn “lặng lẽ ngồi nhặt đĩa dùm con”. Tôi nghĩ với cách ấy, con bé lại càng “được nước”, chắc chắn lần sau xảy ra sự việc tương tự, nó lại càng “lên mặt” với bạn bè.

 

Con cái trưởng thành từ “bệ phóng” nào ?

 

Từ những câu chuyện thực tế trên, chúng ta không thể phủ nhận một điều: trẻ hư là do cha mẹ quá nuông chiêu! Nhiều cha mẹ nuông chiều con chỉ vì nghỉ đơn giản: cho con những gì nó cần và cho những gì nó thiếu. Nhưng, những cái mà nó “cần” và “thiếu”trước mắt ấy chỉ là những thứ nhất thời, còn sâu xa hơn, cái mà trẻ thật sự cần và thiếu là những gì để chúng phát triển và hoàn thiện nhân cách. Cổ nhân ta cũng đã từng có câu nói đến giờ xem ra vẫn chí lý: “Bé không vịn, lớn gãy cành, đá cả nồi canh”…

 

Tình thương yêu và cách giáo dục đúng hướng của cha mẹ chính là “bệ phóng” để con cái trưởng thành. Nhưng cha mẹ phải thể hiện tình thương yêu và cách giáo dục thế nào để có được “bệ phóng” ấy cho con mình ?

 

Theo các chuyên gia tâm lý, không nuông chiều con không có nghĩa là các bậc cha mẹ phải nghiêm khắc một cách cứng nhắc với con. Khi cần thể hiện một điều gì đó “không đồng ý” với “yêu cầu” của con, chúng ta cũng cần tỏ thái độ thẳng thừng. Hãy để cho trẻ đấu tranh với chính mình, tự học tập kinh nghiệm vui buồn của bản thân, rồi hướng dẫn chúng xử lý, tập kiềm chế những ham muốn của mình. Tập cho trẻ có tính độc lập, không ỷ lại vào người lớn là điều mà cha mẹ cũng nên làm, nhưng tính độc lập này phải có chừng mực vì độc lập đến mức ích kỷ thì lại hóa nguy, khiến cho trẻ khi lớn lên sẽ tách biệt khỏi mọi người, thậm chí có thể trở nên vô cảm đối với người xung quanh, chúng có thể hiểu rằng giúp đỡ và quan tâm người khác là chuyện vớ vẩn, rỗi hơi. Cách giáo dục đặt nền tảng trên sự nuông chiều của cha mẹ có thể sẽ vô tình tạo cho con cái sự ích kỷ và xa cách với xã hội. Khi ra đời, “những đứa con” ảnh hưởng bởi cách giáo dục nuông chiều từ nhỏ trong gia đình có thể không coi mình là một thành viên của cộng đồng có quy ước chung và cần sống liên kết…

 

Để trẻ em tự tin mà không cao ngạo, biết cho và nhận hợp lý, biết chia sẻ và cảm thông với người khác…đòi hỏi các bậc cha mẹ phải nỗ lực rất nhiều trong cách thể hiện tình cảm đối với con, làm sao để trẻ hiều biết các biên-độ-sống, biết thế nào là chừng mực trong mọi nhu cầu sống.

 

 

Trầm Thiên Thu

Mục lục

 

Ngứa ngoài da - vì sao?

 

Những ngày qua, tại các phòng khám da liễu của các bệnh viện, bệnh nhân đến khám do sẩn ngứa ngoài da tăng đột biến. Để có cái nhìn toàn diện về căn bệnh ngứa da, chúng tôi xin đăng bài viết của PGS.TS. Bùi Khắc Hậu để bạn đọc tham khảo.


Ngứa da là một triệu chứng thường gặp với nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Khi ngứa, người bệnh sẽ gãi làm xây xước da, chảy máu gây nhiễm trùng mưng mủ hoặc ngứa, gãi tạo thành các nốt sẩn, mụn nước, khi khỏi ngứa thường để lại các nốt thâm, thậm chí để lại các nốt sẹo nhỏ.


Nguyên nhân gây nên ngứa có thể ở ngay ngoài da hoặc có thể ở bên trong nội tạng của cơ thể.


Nguyên nhân ở ngoài da


Bệnh viêm da dị ứng: Trong các bệnh viêm da dị ứng có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có viêm da do tiếp xúc thường hay gặp. Viêm da tiếp xúc là do dị ứng nguyên khi gặp kháng thể gây nên hiện tượng phản ứng biểu hiện là viêm da và gây ngứa, ví dụ viêm da dị ứng ở một số người do đeo quai đồng hồ bằng da hoặc bằng nhựa hoặc viêm quanh thắt lưng quần do giây chun bằng cao su. Cũng có một số người dị ứng với da hoặc cao su nên không đi dép da hoặc dép nhựa được vì hễ mỗi lần đi dép vào là ngứa da vùng tiếp xúc trực tiếp tạo nên phản ứng gây ngứa.


Bệnh mề đay: Mề đay là một bệnh dị ứng da do tiếp xúc với thời tiết lạnh hoặc do ăn, uống với chất hay gây dị ứng ở một số người như tôm, cua, ốc, mắm tôm... Đây là những chất đóng vai trò là dị ứng nguyên khi gặp kháng thể có sẵn trong máu bệnh nhân sẽ gây nên hiện tượng dị ứng.


Bệnh mề đay thường xảy ra ngứa đột ngột, dữ dội tại một vùng da nào đó hoặc có khi gần khắp da cơ thể như cánh tay, bụng, đùi, cẳng chân. Đôi khi bệnh mề đay còn xảy ra ở niêm mạc làm sưng mắt, môi, thậm chí gây viêm niêm mạc ruột gây đau bụng, tiêu chảy, viêm, phù thanh quản. Người ta gọi là nổi mề đay vì nổi lên các nốt sẩn, ngứa.


Trong bệnh mề đay, điển hình nhất là ngứa, người bệnh càng gãi càng ngứa. Các sẩn ngứa to, nhỏ khác nhau đôi khi tạo thành từng mảng. Viền của sẩn ngứa mề đay có màu hồng, trung tâm của sẩn ngứa có màu nhạt hơn.


Bệnh nấm da: Viêm da do nấm là bệnh nói chung, nhưng do nhiều loài nấm khác nhau gây nên (nấm thân, nấm kẽ, nấm móng, nấm tóc...). Mỗi một loài nấm gây bệnh cho da được gọi các tên khác nhau. Bệnh nấm da cũng gây nên ngứa làm cho bệnh nhân rất khó chịu, ví dụ bệnh hắc lào.


Bệnh hắc lào là do nấm thân gây nên. Đầu tiên là ngứa vùng bị bệnh, sau đó thấy một vệt màu hơi đỏ, có viền, bờ rõ rệt, trên viền có các mụn nước lấm tấm. Viền này càng ngày càng lan rộng tạo thành nhiều hình vòng cung. Do người bệnh bị ngứa, gãi làm lây lan ra nhiều vùng da khác trên cơ thể. Bệnh hắc lào là bệnh lây từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn tắm, ngủ chung giường, chiếu... Muốn phòng bệnh hắc lào cần vệ sinh cá nhân tốt. Không dùng chung quần áo, chiếu, khăn và không nằm chung giường với người bị bệnh hắc lào. Khi nghi bị bệnh hắc lào nên đi khám để được xác định và điều trị dứt điểm tránh lây lan cho người khác.


Bệnh lang ben: là một bệnh do nấm gây ra và cũng gây ngứa ghê gớm. Bệnh gây ngứa đặc biệt là khi người bệnh ra nhiều mồ hôi nhất là khi trời nắng. Bệnh lang ben hay gặp ở cổ, vai, ngực, bụng, cánh tay. Bệnh lang ben cũng lây lan từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn mặt, ngủ chung giường... Khi bị lang ben nên đi khám bệnh để được làm các xét nghiệm xác định nấm và trên cơ sở đó người thầy thuốc sẽ cho thuốc điều trị thích hợp và tư vấn sát với thực tế hơn.


Gàu da đầu: Ở người nhiều gàu thường kèm theo ngứa da đầu. Gàu là hiện tượng viêm da làm bong lớp sừng ở da vùng đầu. Hiện nay có nhiều loại dầu gội đầu khác nhau và tùy thuộc vào da đầu của từng người. Vì vậy khi bị gàu nên chọn loại dầu gội thích hợp với da đầu của mình mới hy vọng làm giảm hoặc hết gàu.


Nguyên nhân từ trong nội tạng của cơ thể


Dị ứng thuốc: ngày nay hiện tượng dị ứng thuốc là điều làm cho thầy thuốc hết sức quan tâm. Loại thuốc nào cũng có thể gây nên dị ứng tùy từng cơ địa của từng người (kể cả thuốc Tây y và đông y). Khi dị ứng thuốc, ngoài các triệu chứng khác thì ngứa cũng chiếm một tỷ lệ khá cao.


Bệnh giun sán: Khi mắc bệnh giun, sán thì ngoài rối loạn tiêu hóa có thể có triệu chứng ngứa và nổi mẩn ngoài da. Những trường hợp này người ta ít nghĩ tới chỉ khi đi khám bệnh, xét nghiệm phân mới tìm ra được nguyên nhân và thầy thuốc mới có chỉ định dùng thuốc tẩy giun đúng loại. Song song với việc tẩy giun cần ăn uống hợp vệ sinh, không ăn rau sống và uống nước lã để đề phòng mắc bệnh giun tái phát.


Mắc bệnh tiểu đường (đường máu tăng cao): thường có sụt cân, ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều kèm theo có thể có ngứa da. Do ngứa nên gãi nhiều làm xây xước da gây nhiễm khuẩn. Mắc bệnh tiểu đường cần ăn kiêng một số thực phẩm như đường, các loại nước giải khát có đường, bia, rượu, chuối chín. Nên tập thể dục đều đặn. Cần vệ sinh da thật tốt để tránh nhiễm khuẩn.


Bệnh về gan, mật: Các bệnh về gan mật làm tắc mật làm vàng da và gây ngứa. Khi ngứa mà tìm các loại nguyên nhân chưa xác định được thì cần kiểm tra chức năng và kiểm tra gan, mật để xem có viêm nhiễm, sỏi, u hay không. Viêm gan thì có nhiều nguyên nhân nhưng hay gặp nhất là viêm gan do virus và viêm gan do rượu. Muốn phòng tránh viêm gan do virus (virus viêm gan A,B,C) cần được tiêm phòng. Cần bỏ rượu, đặc biệt khi đã có hiện tượng viêm gan bất kỳ do nguyên nhân gì.


Như vậy, muốn hết bệnh ngứa cần tìm nguyên nhân, khi đã biết chắc chắn nguyên nhân của nó thì việc điều trị sẽ có nhiều thuận lợi cho dù là nguyên nhân bên trong cơ thể hay nguyên nhân ngoài da.


Theo PGS.TS. Bùi Khắc Hậu

Theo Sức khỏe & đời sống

 

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

 

MẦU NHIỆM MÂN CÔI

 

Năm Sự Mừng

 

Mầu nhiệm thứ bốn : Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời

 

Từ Lễ Ngũ Tuần trở đi, Thánh Kinh không còn nói gì về Đức Mẹ nữa. Gioan thì nói rằng từ khi Chúa tắt thở, ông đưa Đức Mẹ về nhà của ông (Ga 19,27). Luca thì kể rằng sau khi Chúa về trời, anh em Tông đồ trở về căn nhà có lầu để tạm trú. Họ cùng Đức Mẹ cầu nguyện sốt sắng cho tới Lễ Ngũ Tuần (Cv 1, 13-14).

 

Sau đó tất cả những thông tin về Đức Mẹ chỉ là truyền khẩu, chỉ là giai thoại, chỉ là suy luận. Người ta suy luận rằng năm 42, Thánh Luca theo đạo còn gặp Đức Mẹ ở đâu đó để phỏng vấn, để có một số tài liệu về thời thơ ấu của Chúa. Nghĩa là vào cuối thập niên 40 thì Đức Mẹ vẫn còn sống. Từ đó người ta suy đoán rằng Đức Mẹ thọ trên 60 tuổi.

 

Một giai thoại kể rằng khi Đức Mẹ qua đời, thì các Tông đồ đều có mặt để dự lễ an táng, trừ Thánh Tôma. Ba ngày sau, ngài mới về tới. Lúc ấy xác Đức Mẹ đã được an táng trong mộ đá. Thánh Tôma đòi mở cửa mộ để cho ngài được nhìn lại Đức Mẹ lần cuối cùng. Nhưng khi cửa mộ mở ra thì chẳng thấy xác Đức Mẹ đâu. Chỉ thấy một khoảng trống buồn hiu. Huyền thoại kết luận rằng : Đức Mẹ đã được Con của Mẹ rước về trời rồi.

 

Sự kiện Đức Mẹ sống lại và về trời cứ âm ỉ loan truyền và được hầu hết tín hữu trong Giáo Hội tin. Tin chỉ là một tự nguyện chẳng ai buộc ai, chẳng ai ép ai. Nếu có ai không muốn tin như thế thì cũng chẳng sợ bị vạ tuyệt thông.

 

Mãi cho tới năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII với quyền thừa kế Thánh Phêrô đã chính thức công bố tín điều Đức Maria đã được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.

 

Chúa dã phục sinh và thăng thiên với cả hồn lẫn xác, thì Đức Mẹ cũng được hưởng ơn ấy do quyền phép của Chúa ban cho như một đặc ân bắt nguồn từ ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.

 

Mẹ yêu dấu.

 

Xác Chúa sống lại và đã được thăng thiên. Xác Mẹ cũng sống lại và được Chúa đưa về trời. Đó là một  phần cao quý mà Chúa đã ban cho Mẹ. Nhưng đó cũng là cái giá mà Mẹ đã phải trả.

 

Mẹ đã ngậm đắng nuốt cay từ ngày sanh con cho tới ngày Chúa phục sinh. Ông già Sêmêon đã gieo vào lòng Mẹ một câu nói đầy ấn tượng. “Trẻ này sẽ nên như lưỡi dao sắc xuyên qua tim của cháu”.

 

Mẹ không được đi truyền đạo với Chúa để được nghe những lời ca tụng ngọt ngào thốt ra từ miệng muôn người phụ nữ ái mộ Chúa. “Phúc thay lòng nào đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú”. Mẹ phải ở trong làng Nadarét nơi có lần đồng hương đòi giết Chúa. Nadarét là nhà tù của Mẹ. Nhưng là nhà Chúa Cha muốn để Mẹ đồng công với Con của Mẹ để cứu độ chúng con. Cám ơn Mẹ. Ngợi khen Mẹ.

 

Mầu nhiệm thứ năm : Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ lên trời.

 

Đức Mẹ được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tôn vinh trên hết mọi thụ tạo. Vì thế Giáo Hội tôn vinh Mẹ là Nữ Vương các Thiên Thần, Nữ Vương các Thánh Tông đồ, Nữ vương các Thánh Tử Đạo  v.. v  Nói tóm lại thì gọi Đức Mẹ là Nữ Vương Trời Đất hay vũ trụ thì cũng được hết.

 

Điều này Đức Mẹ đã linh cảm được khi sứ thần truyền tin cho Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Chính Mẹ đã ngỏ bày tâm sự ấy với bà Êlisabét.

 

“ Em sướng quá chị ạ.

Em chỉ là một nô tỳ hèn mọn

Mà lại được Chúa chiếu cố.

Từ nay mọi thời sẽ khen em là người diễm phúc”.

 

Nếu có ai hỏi tại sao Chúa lại ban cho Mẹ nhiều hồng ân như thế, thì chắc chắn Đức Mẹ cũng chỉ trả lời gọn hơn thế này :

 

“Tất cả chỉ là hồng ân.

Chúa muốn thế và mọi sự đã là thế”.

 

Đúng thế thật, Thiên Chúa toàn năng đã thực hiện biết bao điều kỳ diệu trong vũ trụ : từ một bông hoa rực rỡ dưới ánh mặt trời, cho tới những vì sao lấp lánh trên bầu trời vô biên ; từ những mạch máu li ti trong một con côn trùng bé nhỏ, cho tới những sợi thần kinh trong bộ não của một sinh vật có lý trí; từ  một hạt nguyên tử siêu nhỏ linh hoạt trong một hạt cát tí xíu, cho tới một hành tinh khổng lồ di chuyển kỳ diệu trong một hệ thống hình túi tuyệt vời.

 

Và bây giờ Ngài lại làm cho một thụ tạo bé nhỏ tầm thường trở thành một vị Nữ Hoàng đầy quyền phép cộng tác và can thiệp vào mọi chi tiết trong lịch sử và công trình cứu độ. Đó là một vinh dự cho loài người. Đó là một niềm hãnh diện cho loài động vật có lý trí.

 

Mẹ yêu dấu.

 

Chúa Ba Ngôi yêu Mẹ, Ngôi Thứ Hai của Chúa Ba Ngôi gọi Mẹ là Mẹ. Hôm nay hằng tỉ người trên thế giới gọi Mẹ là Mẹ. Mỗi ngày hàng tỉ người đọc kinh Kính Mừng. Mỗi Kinh Kính mừng nhắc đến tên Mẹ hai lần. Tên của Mẹ là Maria được muôn muôn người hằng ngày nhắc đến bằng nhiều tỉ lần. Các ông già bà già, các trẻ thơ đều gọi tên Mẹ một cách thành kính và yêu thương.

 

Trên thế giới có không biết là bao nhiêu nơi hành hương của Mẹ. Hằng năm người ta vượt trùng khơi để tiến về các nơi hành hương ấy để tôn vinh Mẹ, để khấn vái Mẹ. Và không biết bao nhiêu người được Mẹ ban ơn cho tâm hồn cho thể xác. Trùng trùng điệp điệp. Vô vàn vô số. Không người đếm nổi. Vô số người ấy càng ngày càng gia tăng. Hằng ngày, hằng tháng, hằng năm.

 

Ôi, Mẹ tuyệt vời của chúng con.

 

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Mục lục